<html> <head> <meta http-equiv='Content-Type' content='text/html; charset=utf-8'> <title> </title> </head> <div style="text-align: center;"><span style="color: rgb(0, 0, 255);"><strong><span style="font-size: small;">Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách công tác của cán bộ</span></strong></span><span style="font-size: small;"><br />
</span><span style="font-size: small;"><br />
</span></div>
<div style="text-align: justify;"><span style="font-size: small;"><br />
</span></div>
<table cellspacing="1" cellpadding="1" border="0" align="left" style="width: 204px; height: 114px;">
<tbody>
<tr>
<td style="text-align: justify;"><span style="font-size: small;"><img alt="" style="width: 235px; height: 171px;" src="Bac%20Ho.jpg" /><br />
</span></td>
</tr>
</tbody>
</table>
<div style="text-align: justify;"><em><strong><span style="font-size: small;">Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, vấn đề phong cách công tác được Người rất coi trọng. Theo Người, phong cách công tác của cán bộ có nhiều nội dung, song tập trung chủ yếu ở phong cách dân chủ, phong cách khoa học và sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm.<br />
</span></strong></em></div>
<div style="text-align: justify;"><em><strong> </strong></em></div>
<div style="text-align: justify;"><em><strong> </strong></em></div>
<div style="text-align: justify;"><em><strong> </strong></em></div>
<div style="text-align: justify;"> </div>
<div style="text-align: justify;"> <span style="font-size: small;"><br />
</span><strong><span style="font-size: small;">Phong cách dân chủ</span></strong></div>
<div style="text-align: justify;"><span style="font-size: small;"><br />
Phong cách dân chủ, hay “cách làm việc dân chủ” là nội dung quan trọng hàng đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách công tác. Cơ sở của phong cách dân chủ là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của dân, quan hệ tốt với dân, học hỏi dân. <br />
<br />
Hồ Chí Minh luôn khẳng định chế độ ta “dân là chủ” và khi dân là chủ thì cách lãnh đạo phải dân chủ. Người nói: không một người nào có thể hiểu được mọi thứ, làm hết được mọi việc. Ngay đến anh hùng lãnh tụ cũng vậy. Đem so với công việc của cả loài người trên thế giới, thì những người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua làm tròn một bộ phận mà thôi. Do vậy, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải biết cách tập hợp được tài năng, trí tuệ của nhiều người, của tập thể để phấn đấu cho mục tiêu chung. Mà muốn làm được như vậy, phải tạo ra được một không khí dân chủ thực sự trong nội bộ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề. Người viết: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và, trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều” (1).<br />
<br />
Tuy nhiên, phong cách dân chủ không có nghĩa là mạnh ai nấy làm mà phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, hay còn gọi là nguyên tắc “dân chủ tập trung”. <br />
<br />
Đối lập với phong cách dân chủ là phong cách quan liêu. Hồ Chí Minh kịch liệt phê phán những cán bộ quan liêu, những người “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng” nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” (2).<br />
<br />
Để chữa căn bệnh quan liêu, Người khuyên cán bộ phải “Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều là:<br />
<em><br />
Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết;<br />
<br />
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân;<br />
<br />
Việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ;<br />
<br />
Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình;<br />
<br />
Sẵn sàng học hỏi nhân dân;<br />
<br />
Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo”(3).</em><br />
<strong><br />
Phong cách khoa học<br />
</strong><br />
Phong cách khoa học, hay còn gọi là “cách làm việc có khoa học” cũng là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý. Người thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu cán bộ phải tự rèn luyện để có được phong cách này. Phong cách khoa học đòi hỏi phải được thể hiện từ lúc ra quyết định, tới việc tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định.<br />
<br />
Phong cách khoa học đòi hỏi người cán bộ làm việc gì cũng phải có kế hoạch và có mục đích. Người nói: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”(4). Người phê phán những cán bộ vạch ra “chương trình công tác thì quá rộng rãi mà kém thiết thực”. Người chỉ rõ, để vạch kế hoạch một cách thực sự khoa học, người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà xếp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có ngăn nắp” (5). Một việc chính có thể có nhiều cách thực hiện. Với ý nghĩa đó, Người yêu cầu cán bộ: chủ trương một, biện pháp mười, quyết tâm phải hai, ba mươi. Nói quyết tâm phải hai, ba mươi, tức là Người yêu cầu cán bộ sau khi đã có kế hoạch công tác phải có quyết tâm thực hiện và phải thực hiện đến nơi đến chốn, không được đánh trống bỏ dùi. Người đã nhiều lần phê bình bệnh hữu danh vô thực ở không ít cán bộ “làm việc không thiết thực… Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch… Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà cũng là một bệnh rất nguy hiểm” (6).<br />
<br />
Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, trong bất kỳ công việc gì cũng phải hiểu năng lực của cấp dưới mà bố trí, sử dụng người cho đúng, chớ “dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn”. Khi giao công việc cho cấp dưới phải rõ ràng đầy đủ, phải dự báo được những tình huống có thể xảy ra cho cấp dưới và phải thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của cấp dưới. Chính Lênin cũng chỉ ra rằng, lãnh đạo mà không kiểm tra có nghĩa là không lãnh đạo. Hồ Chí Minh cũng hơn một lần phê bình tình trạng “cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to lớn. Vì thế nên có cán bộ “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy” (7).Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm tận gốc, rồi phổ biến những kinh nghiệm ấy cho tất cả cán bộ và cho dân chúng hiểu. Mỗi cán bộ phải học hỏi những kinh nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những kinh nghiệm cũ vào những công việc mới. Hồ Chí Minh đã phê phán lối làm việc “không biết nghiên cứu đến nơi đến chốn…, để mà học hỏi kinh nghiệm, để mà đặt ra khuôn phép cho công việc khác. Thành thử, những cái tốt, hay đều không phát triển được. Và công việc xong rồi là thôi, cán bộ không học hỏi được kinh nghiệm gì, mà cũng không tiến bộ được mấy”(8). Người khuyên “công việc gì bất cứ thành công hay thất bại chúng ta cần nghiên cứu đến tận cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khoá phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới” (9).<br />
<br />
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nói đi đôi với làm<br />
<br />
Là cán bộ dứt khoát phải có lý luận. Dẫn lời của Lênin, Hồ Chí Minh chỉ rõ, không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục lý luận cho cán bộ. Nhấn mạnh vai trò của lý luận, Người chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” (10). Người chỉ rõ nguyên nhân của căn bệnh chủ quan, duy ý chí ở một số cán bộ là do “kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông” và “vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại” (11). Người khuyên mỗi cán bộ cần phải không ngừng trau dồi lý luận, gắn học tập nghiên cứu lý luận với công việc thực tế của mình, vì “lý luận như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”.<br />
<br />
Sức thuyết phục, sự lôi cuốn của cán bộ với cấp dưới, những người dưới quyền mình và với quần chúng nhân dân còn ở phong cách lời nói đi đôi với việc làm, “nói là phải làm”. <br />
<br />
Nói đi đôi với làm không chỉ là một chuẩn mực hành vi đạo đức truyền thống của dân tộc ta mà còn là một nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác. Lý luận gắn liền với thực tiễn được Hồ Chí Minh rất coi trọng. Người khuyên cán bộ muốn tập hợp, tuyên truyền cấp dưới, tự mình phải “miệng nói tay làm, làm gương cho người khác”. Người chỉ rõ: với những cán bộ “miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm mà tự mình thì ăn trưa ngủ trễ, bảo người ta tiết kiệm mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền hàng trăm năm cũng vô ích” (12). Đó là những cán bộ hỏng. Còn với những cán bộ chỉ biết nói suông, “chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”, những người như thế tuy là thật thà, trung thành nhưng không có năng lực. Hồ Chí Minh nói rõ là không thể dùng những người đó vào công việc thực tế.Nói đi đôi với làm là phong cách công tác hữu hiệu của người cán bộ cách mạng. Nó hoàn toàn khác với thói đạo đức giả bọn quan lại phong kiến nói một đằng, làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Nói đi đôi với làm vừa là phong cách công tác, vừa là phương pháp tư tưởng hữu hiệu của người cán bộ cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý rằng, đối với nhân dân không thể lý luận suông, chính trị suông, nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực từ những tấm gương sáng, những việc làm thiết thực của cán bộ. <br />
<br />
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung và phong cách công tác nói riêng, trong nhiều năm qua, Đảng ta luôn luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất và năng lực, có phương pháp làm việc khoa học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, của cơ chế quản lý mới. Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo công tác cán bộ như: Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII (tháng 6 năm 1992); Nghị quyết Trung ương 3 (tháng 6 năm 1997) và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII (tháng 8 năm 1999); Nghị quyết Trung ương 6 khoá IX (tháng 6 năm 2002) và Nghị quyết Trung ương 3 khoá X (tháng 8 năm 2006)… <br />
<br />
Tuy nhiên, công tác cán bộ “đang đứng trước mâu thuẫn cần giải quyết. Đó là mẫu thuẫn giữa yêu cầu cao về mọi mặt của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, trong khi khả năng đào tạo lại có hạn”(13). Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đại hội X đã vạch ra mục tiêu: phải xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (14).<br />
<br />
Đến Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài (15)./.</span></div>
<div style="text-align: right;"><span style="font-size: small;"><br />
<br />
<strong>TS. LÊ VĂN THỊNH</strong><br />
<em><strong>Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nộ</strong></em>i <br />
<br />
<em>Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo, tháng 8/2011<br />
</em><br />
--------------------------</span></div>
<div style="text-align: left;"><span style="font-size: small;"><br />
(1), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. CTQG H.2000, tr. 244, tr. 374, tr. 292, tr. 256-257, tr. 520-521, tr. 242, tr. 243,tr. 233, tr. 234, tr. 108.<br />
<br />
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG H.2000, tr. 292, tr. 293.<br />
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb. CTQG, H.2002, tr.164.<br />
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2006, tr.292-293.<br />
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2011, tr. 261.<br />
<br />
</span></div> </html>