<html>
<head>
<meta http-equiv="Content-Language" content="en-us">
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252">
<title>Thành đoàn - Một thời hoa lửa</title>
</head>
<body>
<p><font face="Arial" size="2" color="#FF0000"><b>Thành đoàn - Một thời hoa lửa (kỳ 3):</b></font></p>
<p align="center"><font face="Arial" size="2" color="#FF0000"><b>Chuyện tình thời lửa đạn</b></font></p>
<font face="Arial" size="2">Giữa cuộc chiến máu đổ, bắt bớ, tù đày..., tình yêu đôi lứa vẫn sinh sôi. Tình
yêu đó đã động viên họ bước tới, đi qua những gian nan trong chốn lao tù. Và
những lời thề chung thủy ngày nào cho đến bây giờ vẫn còn sắt son, dù người còn
người mất.
</font>
<p class="pInterTitle"><font face="Arial" size="2" color="#FF0000"><b>Giữ trọn lời thề</b></font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Lê Quang Lộc và Huỳnh Quan Thư được tổ chức bí mật phân công
chung liên danh tranh cử vào ban đại diện SV Trường ĐH Văn khoa niên khóa
1966-1967. Lúc mới gặp nhau, chị Thư thầm nghĩ: tay Lộc cứ như công tử bột,
chẳng ra vẻ “cách mạng” gì ráo. </font> </p>
<table class="tLegend" style="border-collapse: separate" cellSpacing="0" cellPadding="0" width="40" align="right" border="0" id="table10">
<tr>
<td>
<img border="0" src="hoa%20sinh%20SG.JPG" width="200" height="150"></td>
</tr>
<tr>
<td>
<p align="center"><font face="Arial" size="2" color="#FF0000">SVHS Sài Gòn xuống đường đấu tranh</font></td>
</tr>
</table>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Dần dà thấy anh Lộc làm việc nhiệt tình, khiêm tốn, đứng đắn
nên Thư bắt đầu “để ý”. Tuy vậy, ngoài những buổi làm việc chung, Thư cố ý tránh
né vì nghi ngờ anh Lộc không phải “phe ta”. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Đùng một cái, anh Lộc đi gặp anh Ba Triết (tức Nguyễn Ngọc
Phương, ủy viên thường vụ Thành đoàn kiêm bí thư Đoàn ủy SV) nói là đã “chấm”
Thư và nhờ “giữ hộ”. Từ đó, họ âm thầm chấp nhận tình cảm và kín đáo chăm sóc
cho nhau. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Sau Tết Mậu Thân, anh Lộc thoát ly. Được tin, lòng Thư dâng lên
nỗi buồn man mác. Chị lên lầu ba ĐH Văn khoa nhìn về phía chân trời xa lắc.
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Chính tại nơi này anh Lộc đã từng thổ lộ với chị: “Mình đã yêu
mà không dám nói ra vì sợ mai mốt ở tù lâu người ta chờ tội nghiệp”. Lần đó, anh
suýt nắm tay chị, nhưng anh dằn lòng rồi ngập ngừng bước xuống cầu thang.
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Bẵng một tuần sau, truyền hình Sài Gòn phát lệnh truy nã anh
Lộc vì anh nằm trong danh sách đại diện SV trong Liên minh Dân tộc dân chủ và
hòa bình VN (cùng với Hồ Hữu Nhựt, Lê Hiếu Đằng, Trần Thiện Tứ...) được lập
trong chiến khu.</font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Do hòm thư của liên minh đặt ở nước Pháp nên có khi hai, ba
tháng họ mới nhận được thư nhau. Lá thư đầu tiên anh viết “rừng khuya lạnh, nhớ
em nhiều”. Một ngày nọ, anh Lộc gửi thư “báo cho em mừng, bà già đã chịu em
rồi!”. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Cuối năm 1968, chị bị bắt, sau đó một năm được thả do địch
không có bằng chứng kết tội. Một ngày tháng 12-1970, chị nhận được tin vui bất
ngờ “theo giao liên vào căn cứ Thành đoàn”. Họ đã trùng phùng trong nước mắt tại
căn cứ Thành đoàn bên dòng sông Sở Thượng (giáp biên giới Campuchia).
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Tháng 4-1971, đường dây bị lộ không thể đón cơ sở vào căn cứ
học tập nên Thành đoàn khuyến khích các đôi tranh thủ lo “việc riêng”.
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Vào ngày cưới của họ, những chùm hoa ô môi mộc mạc bên dòng Sở
Thượng được kết đầy căn phòng tân hôn dã chiến. Một lần hành quân dời cứ bị máy
bay địch tấn công, cả hai nhảy xuống một căn hầm, bất chợt họ nhìn nhau đầy lo
lắng. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Sau lần đó vợ chồng rút kinh nghiệm: mỗi người nhảy xuống một
hầm, lỡ có bề gì cũng còn một người nuôi con, rồi cũng phải sinh thêm một đứa
con để lỡ cả hai hi sinh thì các con tự nâng đỡ nhau. “Còn nếu anh hi sinh?”,
Lộc hỏi vợ. Thư trả lời: “Thì em ở vậy suốt đời”.</font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Ngày 15-4-1975, trên đường hành quân về Sài Gòn, đơn vị của anh
Lộc lọt vào ổ phục kích của đối phương. Trước đó, anh viết thư về nhờ giao liên
đưa con trai Vĩnh Linh, khi đó mới hơn 3 tuổi, vào cho anh thấy mặt, cha con
quây quần với nhau được 10 ngày, lần đầu cũng là lần cuối. Anh đã hi sinh khi
chưa biết mặt con gái Thanh An. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Chị Thư sau đó về công tác tại Quận đoàn Bình Thạnh, ban thiếu
nhi Thành đoàn rồi Cửa hàng Bách hóa tổng hợp TP.HCM và hiện đang kinh doanh sơn
mài ở Q.1, TP.HCM. Giữ vẹn lời thề thuở trước, chị vẫn ở vậy nuôi con, một lòng
sắt son với người chồng liệt sĩ. Chị nói: “Với tôi, anh ấy không chết mà chỉ là
đi xa chưa về”.</font></p>
<p class="pInterTitle"><font face="Arial" size="2" color="#FF0000"><b>Đám cưới trong nhà tù</b></font></p>
<table style="border-collapse: separate" borderColor="#ecf2fe" cellSpacing="5" borderColorDark="#456ae1" cellPadding="4" width="240" align="right" borderColorLight="#4792d9" id="table8">
<tr>
<td vAlign="center" bgColor="#cfe6f9">
<p class="pBody"><font color="#030303"></p>
<table class="tLegend" style="border-collapse: separate" cellSpacing="0" cellPadding="0" width="40" align="center" border="0" id="table9">
<tr>
<td>
<img border="0" src="3.JPG" width="150" height="200"></td>
</tr>
<tr>
<td> </td>
</tr>
</table>
</font>
<p align="center"><font color="#0000FF" face="Arial" size="2">Những kỷ vật của liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương
đã đồng hành cùng cô Quế Hương suốt 33 năm qua. Sau giải phóng, cô đi
Nông trường Thái Mỹ (Củ Chi), đến năm 1978 về Đà Lạt sống cùng mẹ và
công tác ở Hội LHPN tỉnh Lâm Đồng, rồi Mặt trận Tổ quốc tỉnh, hiện nghỉ
hưu tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng). </font></p>
<p align="center"></P>
<p class="pBody" align="center">
<font color="#0000FF" face="Arial" size="2">Bao nhiêu hình ảnh, kỷ vật, cả
những mẩu báo phân ưu ngày ấy đều được cô lưu giữ cẩn thận, bởi đó là
những gì thiêng liêng nhất với cô. Và còn nhiều lá thư khác giữa hai
người mà chỉ mỗi cô dâu của “đám cưới trong nhà tù” được đọc.</font></td>
</tr>
</table>
<font face="Arial" size="2">Có lẽ đến hết cuộc đời mình chị Cao Thị Quế Hương không thể nào quên ngày
24-2-1968, ngày cô giáo triết học Trường Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) gặp anh Nguyễn
Ngọc Phương (Ba Triết, bí thư Đoàn ủy SV). </font></P>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Đó là người đại diện SV giải phóng mà chị nhớ mãi về khả năng
đánh giá, phân tích tình hình chính trị uyên thâm. Thời gian này anh Ba Triết là
lãnh đạo trực tiếp hỗ trợ chị Quế Hương phụ trách phong trào SV tại ĐH Văn khoa
nên họ có nhiều cơ hội gặp nhau. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Năm 1969, anh Ba Triết bị bắt, bốn tháng xa nhau cũng là khoảng
thời gian thử thách tình cảm của hai người. Chị nhận ra mình không thể thiếu anh
trong cuộc đời.</font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Đường phố Sài Gòn những năm 1970 đầy cảnh sát, mật vụ vì hầu
như ngày nào cũng có biểu tình. Có lần sau khi học xong bài “giữ gìn khí tiết
cách mạng”, từ chiến khu trở về nội thành anh Ba Triết dặn người yêu: “Nếu chẳng
may bị bắt, em cố gắng chịu đựng mà về với anh, dù em còn bộ da bọc xương cũng
ráng mà về với anh”. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Ngày 5-3-1970, trên đường đi công tác, họ bị địch bắt đưa về
nhốt chung với gần 40 anh em khác. Sau hai tuần đánh đập, 20 người được thả. Để
giảm nhẹ tội cho chị, anh Ba Triết khai nhận chị là vợ, làm giao liên cho chồng
chứ không biết gì về tổ chức. Ngày 20-4-1970, họ bị đưa ra tòa, 10 người được
thả trong đó có chị.</font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Ra tù, mỗi tuần chị được 10 phút thăm chồng, gọi là chồng vì
vào ngày họ bị bắt là còn đúng một tuần nữa hai người sẽ thành thân. Một ngày
giữa tháng 6-1970, gia đình anh lên Đà Lạt xin nhận dâu.
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Mẹ anh trao cho chị cặp nhẫn cưới, thắp nén nhang lên bàn thờ
tổ tiên xin chứng giám. Đó là một đám cưới không có chú rể cũng chẳng có quan
khách, tiệc tùng. Lần thăm nuôi sau đó, chị cùng mẹ chồng và một vài người bạn
mang theo chiếc bánh do em gái chú rể tặng để làm “cỗ cưới” cho anh trai.
</font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Cũng chỉ kịp nhìn vào mắt nhau, trao cho nhau chiếc nhẫn cưới
rồi phải ra về. Sau này, mẹ chồng, bạn bè và đồng đội có mặt hôm ấy gọi đó là
“đám cưới trong nhà tù”. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Trong những lần thăm nuôi ngắn ngủi, họ đã lén trao nhau những
lá thư chan chứa yêu thương. Đó là nhật ký của bao nỗi nhớ thương khắc khoải
được viết từng ngày. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Bức thư ngày 2-6-1972, anh viết: “Tối nay lại mưa, mát nhưng
buồn. Em ở nhà chỉ với mẹ thì vắng quá phải không, xa nhau đã vắng rồi. Em ráng
chịu đựng với anh nghe, anh thì thương em một trăm kiếp, hẹn nhau kiếp sau, gặp
nhau kiếp này không đủ đâu em. Nhiều lúc mơ mộng anh muốn mình trẻ mãi được trăm
năm để sống với nhau”. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Và đây là nội dung bức thư đề ngày 5-6-1972: “Anh lại bắt đầu
tháng thứ 28 trong tù và như vậy mình đã xa nhau hơn 800 ngày”.</font></p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Suốt ba năm đằng đẵng đợi chờ, người vợ trẻ chưa một lần được
tựa vai chồng vẫn giữ niềm tin. Một ngày đầu năm 1973, khi vừa xách giỏ vào đến
cổng nhà tù Chí Hòa, chị nhận được hung tin: anh Phương hôn mê và được đưa ra
Bệnh viện Sài Gòn. </font> </p>
<p class="pBody"><font face="Arial" size="2">Trên đường lao ra bệnh viện, chị thầm nuôi hi vọng có cơ hội
cùng chồng trốn đi. Nhưng niềm hi vọng mong manh của chị không thành sự thật.
Người chiến sĩ dũng cảm đã ra đi.</font></p>
<p> </p>
<p> </p>
</body>
</html>