<html>
<head>
<meta http-equiv="Content-Language" content="en-us">
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252">
<title>Chương trình Mùa xuân biên giới</title>
</head>
<body>
<p align="center"><b><font face="Arial" size="2" color="#0000FF">Chương trình
Mùa xuân biên giới 7: Ước mơ nơi đảo xa</font></b></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2" color="#008000"><strong>“Vật thể
lạ” trên đảo</strong> </font></p>
<div align="right">
<table width="1" align="right" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" id="table4">
<tr>
<td><font face="Arial" size="2">
<a onclick="return openImageNews(this,188,250)" href="http://sggp.org.vn/dataimages/original/2009/01/images276904_6a.jpg">
<img src="http://sggp.org.vn/dataimages/original/2009/01/images276904_6a.jpg" width="200" border="0"></a>
</font></td>
</tr>
<tr>
<td class="Image">
<p align="center"><i><font color="#808080" face="Arial" size="2">
Chiếc xe gắn máy duy nhất trên đảo Hòn Khoai.</font></i></td>
</tr>
</table>
</div>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Hòn Khoai, trước có tên gọi rất
thơ mộng - hòn Giáng Hương - và nhiều tên gọi khác như hòn Độc Lập, đảo Poulo
Obi. Tên Hòn Khoai được gọi vì nhìn từ xa đảo giống như củ khoai khổng lồ và đá
cuội trên đảo to và cũng tròn tròn như củ khoai tây. Hòn Khoai cách đất liền
khoảng 16 hải lý, tính từ cửa Rạch Gốc thuộc huyện Ngọc Hiển. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cụm đảo Hòn Khoai có nhiều đảo
nhỏ nằm gần kề như Hòn Sao (hình con sao biển), hòn Đồi mồi (có hình dáng con
rùa biển đang ngâm mình dưới nước), hòn Đá lẻ, hòn Tượng… Hòn Khoai nhìn từ đất
liền chỉ là một chấm nhỏ phía cực Nam của mũi Cà Mau nhưng lại là vị trí đèn
biển quan trọng ở biển Tây Nam và vịnh Thái Lan mà còn là vị trí tiền tiêu quan
trọng ở cực Nam Tổ quốc.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Hòn Khoai có tên là Độc Lập là có
lý do. Năm 1940, cuộc khởi nghĩa do thầy giáo Phan Ngọc Hiển chỉ huy nổ ra tại
Hòn Khoai, giết chết tên chúa đảo là Oliever và tịch thu kho vũ khí. Sau 7 ngày
chiến đấu anh dũng giữ đảo, nhiều người rơi vào tay giặc, trong đó có thầy giáo
Hiển. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Ngày 12 -7- 1941, nhà giáo yêu
nước Phan Ngọc Hiển bị Pháp đem ra xử bắn tại sân vận động thị xã Cà Mau. Cuộc
khởi nghĩa của các chiến sĩ tại Hòn Khoai đã để lại sự khâm phục trong lòng nhân
dân cả nước. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Đại úy Lê Văn Bản, Trưởng trạm ra
đa 595, thuộc Hải quân vùng 5 đóng trên Hòn Khoai đã nóng lòng vào ra chờ đoàn
chúng tôi trên đỉnh đảo. Đường lên đỉnh đảo là một đoạn dốc với những viên
đá xếp lổn nhổn lên nhau dài khoảng 100m, tiếp đó là những con dốc đứng 70° xoắn
hình trôn ốc.<br>
<br>
Mọi người tuôn mồ hôi như tắm và thở dốc. Đúng lúc tôi “chịu hết xiết” thì có
tiếng xe gắn máy nổ từ xa. Trung úy Nguyễn Tiến Hòa, Phó Bí thư chi đoàn trạm ra
đa chạy chiếc xe gắn máy xuống dốc đón người “yếu nhất đoàn”, là tôi. Nhìn chiếc
xe gắn máy cũ kỹ đầy “sẹo”, không vè, không bô, không đèn còi, tôi không đoán
được xe đó của hãng nào và nó bao nhiêu “tuổi” nên cũng hơi ngại.<br>
<br>
Để lên đến đỉnh Hòn Khoai, chiếc xe phải tháo ống bô và chỉ gài một số duy nhất
- số 1. Đi một đỗi chiếc xe đảo như “lên đồng” vì xẹp bánh. Thấy tôi sợ quá,
trung úy Hòa dừng xe ở ven rừng rút ống bơm trên xe ra bơm lấy bơm để. Và tôi
được chở lên đỉnh đảo với cái xe thời tiền sử ấy. <br>
<br>
Hỏi mới biết, đó là chiếc xe mà Công ty Viễn thông Viettel dùng làm phương tiện
vận chuyển vật liệu lên đỉnh đảo khi họ thi công một công trình của hãng ở đảo.
Xong việc, họ tặng lại trạm ra đa của hải quân. Nhìn xe xấu thế, nhưng “vật thể
lạ” đang là chiếc xe duy nhất của các lực lượng vũ trang giữ đảo. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Anh Tuấn, Đội trưởng Đội Kiểm lâm
nhiều lần có việc gấp, chạy bộ không kịp cũng phải mượn xe của hải quân. Để
chuẩn bị “cõng” tôi xuống núi, trung úy Hòa và một cậu hải quân trẻ đã phải hì
hục sửa chiếc xe cà tàng ấy hàng giờ liền. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Lần phát hiện một tàu dân bị tai
nạn tại Hòn Khoai, chiếc xe cà tàng ấy phải chạy lên, chạy xuống giữa bãi biển
và đỉnh đảo nhiều lần, không chịu nổi sự “vất vả” đã nằm vạ giữa rừng. Các chiến
sĩ hải quân phải ôm thiết bị cứu sinh chạy bộ để cứu dân. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Xong việc, giận quá họ bỏ mặc
chiếc xe cà tàng trong rừng nhưng ngày hôm sau, họ lại xuống hì hục sửa chữa,
bởi nếu không có nó, các chiến sĩ hải quân trên đỉnh đảo và các chiến sĩ giữ đèn
biển còn phải nai lưng cõng thực phẩm, nước sạch và hàng tiếp vận từ bãi dài
vượt hàng chục con dốc đứng lên đỉnh đảo. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Chuyện kể của trạm ra đa này được
bắt đầu từ năm 1988 và người gắn liền với đảo Hòn Khoai thuở còn hoang sơ ngày
ấy là chàng thiếu úy hải quân trẻ Nguyễn Ngọc Hòe, quê Nghệ An, được điều động
từ đảo Thổ Chu sang đây để thiết lập cơ sở hạ tầng cho trạm ra đa trong tình
hình mới.<br>
<br>
Ngày ấy, cây cối trên đảo rậm ri, âm u đến rợn người. Con đường nhựa cũ dẫn lên
căn cứ hải lục không quân của chế độ cũ chi chít cây rừng bò ra chắn lối. Con
đường dốc đứng dài 3 km được khơi thông bởi nhóm chiến sĩ hải quân. Và trên nền
nhà tiền chế cũ, đổ nát và khung cảnh hoang tàn quanh đó, tổ chiến sĩ gồm 3
người đã đặt nền cho khu trạm ra đa vững chải ngày hôm nay. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cái khó nhất lúc ấy là nước ngọt
và lương thực. Những ngày ấy, thiếu úy Hòe, trạm trưởng trạm ra đa đầu tiên và
các chiến sĩ phải sống những ngày vất vả vì tất cả lương thực, nước uống các anh
đều phải chờ tiếp tế từ đất liền. Có khi biển động cả tháng, cán bộ, chiến sĩ
phải tính toán gạo, rau và đặc biệt họ đã phải tính toán nước uống cầm hơi như
đang đi trên sa mạc. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Trong tình huống ấy, các chiến sĩ
hải quân vùng 5 vẫn quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ “khai hoang” trên
chóp đảo Hòn Khoai. Và bây giờ, theo đại úy Bản, trưởng trạm hiện nay, các anh
đã tự lo cho bữa ăn của mình những món rau xanh, thịt heo và cá tươi, hơn thế,
các anh đã xây được một hồ chứa nước ngọt trên đỉnh đảo. <br>
<br>
Trên đỉnh đảo hoang vắng này bây giờ đã có vườn rau xanh mướt rộng gần 700m2,
thu hoạch từ hai ao cá được hơn 500kg cá các loại và có cả 2 chú heo được nuôi
để chuẩn bị làm nhân cho bánh chưng ngày tết. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2" color="#008000"><strong>Chiếc dao
bào của bà Tư Chuối</strong> </font></p>
<div align="left">
<table width="1" align="left" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" id="table5">
<tr>
<td><font face="Arial" size="2">
<a onclick="return openImageNews(this,188,250)" href="http://sggp.org.vn/dataimages/original/2009/01/images276906_6b.jpg">
<img src="http://sggp.org.vn/dataimages/original/2009/01/images276906_6b.jpg" width="200" border="0"></a>
</font></td>
</tr>
<tr>
<td class="Image">
<p align="center"><i><font color="#808080" face="Arial" size="2">Bà
Tư chuối nướng (bìa trái) bày tỏ “ước mơ” với Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau</font></i></td>
</tr>
</table>
</div>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Đảo Hòn Chuối thuộc huyện Trần
Văn Thời, cách cửa Sông Đốc khoảng 3 giờ tàu chạy, trước giải phóng vốn là nơi
trú ẩn an toàn của những thanh niên trốn quân dịch. Năm 1973, cha bà Tư đưa anh
trai bà ra đảo để trốn lính. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Quay về đất liền, nghĩ thương
thằng con trai chơ vơ giữa biển một mình nên cha bà Tư “khuân” hết cả nhà ra đảo
sống. Năm ấy bà Tư còn là cô gái trẻ 16 tuổi, tên thật là Nguyễn Thị Hà.<br>
<br>
Những tưởng chỉ một gia đình mình sống ngoài đảo nhưng sau đó họ mới phát hiện
còn vài người khác cũng đang sống trên đảo vì trốn quân dịch như ông Chiến,
ông Hai... </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cuộc sống khó khăn trên đảo đã
đẩy những người cô đơn lại với nhau và bà Tư lập gia đình trên đảo. Chồng chết,
6 đứa con lần lượt vào bờ sinh sống. Bà Tư ở lại đảo sống với những kỷ niệm xưa
và vườn chuối cũ. Thằng con trai thấy vậy lại mang vợ trở ra đảo sống với bà.
</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Những ngày gió lớn, biển động, bà
Tư không bán chuối cho ai được thì mang chuối ép phơi và nướng chuối bán cho cư
dân trên đảo. Từ đó, bà có tên bà Tư chuối nướng. Cũng tưởng bà Tư “chết danh”
với những trái chuối trên đảo này, nhưng một bất ngờ khác đã đẩy đưa “bà Tư
chuối nướng” thành “bà Tư đỡ đẻ”. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cư dân ở đảo suốt ngày hụp lặn
dưới biển sâu kiếm sống, với họ, việc đánh bắt được mùa nào con gì quan trọng
hơn việc biết chữ. Và chuyện bà Tư “chuối nướng” trở thành bà Tư “đỡ đẻ” cũng
chẳng qua học hành gì. Thường phụ nữ ngoài đảo sắp sanh phải vào ở trong đất
liền cả tháng chờ sinh. Sinh xong cũng chờ đầy tháng mới ra. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Nhưng nào phải ai cũng có người
thân trong đất liền mà vào ở chờ sinh đâu. Gia đình Nhí, chuyên phụ việc gắp câu
kiếm sống thật khổ. Nhí có người bà con xa ở tận U Minh, vào đó xa lắm nên cô cứ
lần chần chờ chồng đi biển về để đưa vào “nằm chờ đẻ” ở nhà họ hàng xa trong Năm
Căn.<br>
<br>
Nghe nói chồng đã có vợ khác trong bờ, không ra đảo nữa nên tối ấy, Nhí ra ghềnh
đá nhìn vào đất liền mà khóc rồi chuyển bụng đẻ rớt ở gốc cây gần đó. Nghe tiếng
con nít khóc nghẹn nghẹn, tiếng rên la khe khẽ của người mẹ, bà Tư vội vàng lấy
cái đèn pin ra coi. Bà hét toáng gọi mọi người gần đấy giúp mẹ con Nhí vào nhà.
Người nấu nước, người chạy lấy cái mền quấn cho đứa trẻ trong khi bà Tư vội lấy
con dao bào mà “chú hải quân mới cho” hơ lửa rồi cắt rốn ngon ơ. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Bà bảo: “Mình sanh 6 lần rồi nên
biết các “thủ tục”, làm như vậy là được”. Mà bà Tư thật mát tay, lũ trẻ ở đảo
Hòn Chuối được bà đỡ sinh ra sống dễ như cây cỏ ngoài hòn vậy. Chúng lớn lên
khỏe mạnh như cây rừng trên đảo. Có lần, “Con nhỏ nhà Mơ đẻ ngược. Thấy chân tay
lòi ra trước tui hết hồn, nhưng lúc ấy mình thấy như con cái mình đang gặp nguy
hiểm, thế là tự dưng suy nghĩ ra cách đỡ đẻ an toàn cho mẹ con nó, vậy thôi”, bà
Tư cười hiền lành kể. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Từ đó đến nay, cứ mỗi chiếc dao
bào bà Tư xin được từ các chiến sĩ hải quân là một lần bà Tư giúp cho vài đứa
trẻ ra đời khỏe mạnh trên đảo.</font></p>
<table border="0" width="100%" id="table7" cellspacing="0" cellpadding="0">
<tr>
<td bgcolor="#E6F7FF">
<p align="justify"><font size="2" face="Arial">Trong chuyến thăm của Bí
thư Tỉnh ủy Cà Mau Nguyễn Tuấn Khanh tại đảo Hòn Chuối, bà Tư kể ông
nghe những nỗi khó khăn của phụ nữ vượt cạn ngoài đảo và bà không ngại
nói với ông “mơ ước có một bộ đồ nghề đỡ đẻ cho đúng vệ sinh”. Ông Bí
thư gật đầu và đưa tay nắm lấy bàn tay của bà Tư và nói “sẽ có bà Tư
à”. </font></p>
<p align="justify"><font size="2" face="Arial">Bà Sáu và ông tổ trưởng
an ninh nhân dân trên đảo ngồi gần bên cũng “tranh thủ” nói với ông Bí
thư về mơ ước có một lớp học “theo chương trình giáo dục đúng chuẩn hẳn
hoi để khi chúng lớn hơn vào đất liền sẽ được tiếp nhận vào học tiếp”…
</font></p>
<p align="justify"><font size="2" face="Arial">Những “mơ ước không của
riêng ai” được các cư dân trên đảo và các chiến sĩ biên phòng bàn bạc
với ông Bí thư một cách triệt để, trước khi tàu đón ông và đoàn cán bộ
tỉnh Cà Mau vào bờ… </font></td>
</tr>
</table>
<p align="right"><strong><span style="font-style: italic">
<font face="Arial" size="2">Theo SGGPO</font></span></strong></p>
</body>
</html>