<!DOCTYPE html PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.0 Transitional//EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-transitional.dtd">
<html xmlns="http://www.w3.org/1999/xhtml">
<head>
<meta content="en-us" http-equiv="Content-Language" />
<meta content="text/html; charset=utf-8" http-equiv="Content-Type" />
<title>Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 10</title>
<style type="text/css">
.style1 {
font-family: Arial;
}
.style2 {
font-family: Arial;
font-size: 10pt;
}
.style3 {
font-size: 10pt;
font-weight: bold;
}
.style4 {
font-size: 10pt;
font-style: italic;
}
.style5 {
font-size: 10pt;
}
.style6 {
font-size: 10pt;
font-weight: bold;
text-align: right;
}
.style7 {
font-family: Arial;
font-size: 10pt;
text-align: center;
color: #0000FF;
}
</style>
</head>
<body>
<p class="style7"><strong>Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà
Nội</strong></p>
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-family: 'Times New Roman'; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; font-size: medium;">
<span class="Apple-style-span" style="font-family: arial; font-size: 12px; text-align: left;">
<span id="ctl01_chCenterLeft_ctl03_lblTeaser" class="style1" style="color: rgb(0, 0, 0); font-weight: bold; font-style: normal; font-variant: normal; font-size: 12px; line-height: normal;">
<font size="2">Đề cương của Ban Tuyên giáo Trung ương</font></span></span></span><span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; font-size: medium;"><span class="style1" style="font-size: 12px; text-align: left;"><p style="line-height: 17pt; text-align: justify;">
<font size="2">Theo chính sử của nước ta, mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý
Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay
là Hà Nội. Với bề dày ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt,
hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới,
hình thành văn hiến Thăng Long – Hà Nội, toả chiếu mọi miền Tổ quốc. Năm 2010,
Thủ đô Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử
nước nhà.</font></p>
</span></span><span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">I. THĂNG LONG
– HÀ NỘI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ</p>
</span></span><span class="style1" style="font-size: 12px; text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; font-size: medium;">
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2"><b>1.<span class="Apple-converted-space"> </span>Thời
kỳ tiền Thăng Long</b></font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thời Hùng
Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng
quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế
vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch
sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị,
kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn
tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương
Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của
chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi
tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại
La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một
vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá
của các tầng lớp nhân dân.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Trong hơn mười
thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi
nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập
tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc
lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh
đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa<i>“Khai Quốc”</i>, đóng
đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là
Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo
đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường,
xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất
Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ
chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh
Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ
từ năm 931 đến năm 937.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thời tiền
Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý
Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây
dựng nền độc lập.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;"> </p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2"><b>2.</b><span class="Apple-converted-space"> </span><b>Thăng
Long thời Lý (1010 - 1225)</b></font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Năm 1010, ngay
sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành
Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô,
Lý Công Uẩn đã đứng trên<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“chủ
thuyết phát triển”<span class="Apple-converted-space"> </span></i>và cái nhìn
toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ
Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện
cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thời Lý kinh
đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Tam
trùng thành quách”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>3 vòng thành
lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng
Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành
được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông
Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét
nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự
nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này
còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng
năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công
trình<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thăng Long tứ trấn”</i>,
nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục....
Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076,
tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục
hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp
văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học
của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà
Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế,
văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2"><b>3</b>.<span class="Apple-converted-space"> </span><b>Thăng
Long thời Trần (1226 - 1400)</b></font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Sau 215 năm
cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm
1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật
tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long
thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ
ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch
định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại
Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn
quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử
được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám
hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các
nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt,
tạo nên hào khí Đông A.</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Kinh đô Thăng
Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong
khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển
nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông
thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú
chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời
Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời
Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ
đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh
tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân
đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược
khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân
xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại,
ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long,
hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước
anh hùng.</p>
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">4. Thăng Long
thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Nhà Trần trị
vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm
quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng
Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối
triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị
thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất
của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ
ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc
bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị
phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm
kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm
1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động<i>“vừa đánh
vừa đàm</i>”,<i>“vây thành diệt viện”</i>, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh
trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược
và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục
quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu
Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của
quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm
thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê
xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính
Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng
xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu
dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh
Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán
tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải;
Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống…</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Năm 1428, Lê
Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ
chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến
khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt
tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn
trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của
tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3
lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau,
dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở
lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ
Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ
tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung
hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào
loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những
thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng
Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ
thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.</p>
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">4. Thăng - Hà
Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Cuối năm 1788,
Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn
Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra
Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng
Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho
tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương
(Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông
to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân
dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi
quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về
quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến
khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra
chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây
Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng
Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng.</p>
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">5. Thăng Long
- Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Lợi dụng cơ
hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam
đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú
Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là
một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831,
Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ),
Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất
nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó
vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Cuối thế kỷ
XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả
nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn
Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng
chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược
đã ký “<i>Hiệp ước hoà bình”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>(1883),
công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“bảo
hộ”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền
cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc
lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc
ký.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Chính sách
khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ
đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là
mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua
sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“khu
nhà binh”</i>, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con
Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành
các<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“khu phố Tây”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>(nằm
trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường
Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng,
như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn,
nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội…</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Mặc dù thực
dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của
nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện
lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội,
ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền.</p>
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">6. Hà Nội
trong thời đại Hồ Chí Minh</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Ngày
02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn
làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới.</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Bước vào xây
dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương
đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn
quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực
rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô.</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Hoà bình lập
lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng
bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn
định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành
phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi
công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành
cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt
thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ
đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả
nước.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Giữa năm 1966,
giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế
quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969,
Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh
tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới
Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu
vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở
thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày
đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể
hiện bản lĩnh là<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thủ đô của phẩm
giá con người”</i>, quân dân Hà Nội đã lập nên trận<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Điện
Biên Phủ trên không”</i>, đánh sập<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“uy
thế không lực Hoa Kỳ”</i>. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường
không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23
chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay
trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây.
Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris
(01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày
30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân
ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết
lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống
nhất.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Tháng 4/1976,
Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội
quyết tâm xây dựng Thủ đô<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn”.</i>Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu
biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông
nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch
phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ
thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Các công trình
lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6
(đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim
Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng.
Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông
nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp
dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau
ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành.</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Với những bước
đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục
tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức
cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu
kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Giai đoạn 1996
– 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những
ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then
chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế -
xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân
sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%,
năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh
thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều
cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên.
Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp
quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thành
phố vì hòa bình”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>và lấy làm nơi
phát động<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Năm quốc tế hòa bình –
2000”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Năm 2000, Hà Nội được
Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế,
thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh
tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ,
thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần
kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm
đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng
với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long,
Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh,
Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công
nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công
bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung
tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ
đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát
triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát
triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.</p>
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Những năm đầu
thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các
vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường
Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát
triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu
ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công
nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu
dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo
quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì,
khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân.
Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu
Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc
đường quốc lộ 3.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Việc cải tạo,
xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của
một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần
thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính
thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3
năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô
Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của
tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở
rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km<sup>2</sup><span class="Apple-converted-space"> </span>với
gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc
Kinh, Mường, Dao sinh sống.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style5" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Đảng bộ và
nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm
đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát
triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân
Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải -
Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu
công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở
rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu
cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà
soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Trải qua bao
biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế
và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài
của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô
thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn
kết xây dựng Hà Nội là<span class="Apple-converted-space"> </span><b><i>“Thủ đô
xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”</i></b>, phát huy tốt vai trò là trung
tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao
dịch quốc tế.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">II. MỘT SỐ GIÁ
TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN HIẾN THĂNG LONG – HÀ NỘI</p>
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">1. Truyền
thống yêu nước, hào khí Thăng Long – Hà Nội</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thăng Long –
Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Trải nghìn năm,
Thăng Long – Hà Nội từng bẩy lần bị giặc chiếm đóng, cả bẩy lần quân dân kinh
thành đều nhất tề chiến đấu kiên cường. Trước thế mạnh hung hãn của kẻ thù, chưa
đủ sức chống đỡ, quân dân ta chủ động thực hiện kế<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thanh
dã”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>rút khỏi kinh thành bảo toàn
lực lượng, cho quân giặc<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“tạm đứng
chân”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>ở Thăng Long một thời gian,
rồi bao vây quét sạch chúng đi. Thăng Long – Hà Nội có thế<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“rồng
cuộn, hổ ngồi”</i>, có con người dám đánh và biết cách đánh giặc, thời bình thì
thực hiện<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“ngụ binh ư nông”</i>.
Giặc đến, trên khắp đồng quê, làng phố người tay cầm cày, tay cầm gươm, người
tay cầm bút, tay cầm súng, vừa duy trì cuộc sống, vừa chiến đấu cứu nước cứu
nhà. Giặc đến, trai tráng ra trận, bạch đầu quân cũng hướng theo cờ nghĩa, thiếu
niên cũng luyện võ, mài đao. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Sức mạnh lòng dân
chính là nhân tố đem lại chiến thắng vẻ vang cho đất nước. Thế kỷ XI, nước lân
bang chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động viết hịch<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Phạt
Tống lộ bố văn”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>gửi các chúa vùng
Ung, Khâm, Liêm rồi mang đại quân tiến thẳng vào sào huyệt để tiêu diệt các kho
vũ khí, lương thảo của địch, sau đó lui về lập phòng tuyến vững chắc ở sông Như
Nguyệt. Bài thơ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Nam quốc sơn hà
Nam đế cư”<span class="Apple-converted-space"> </span></i>âm vang trên dòng sông
Như Nguyệt như lời hiệu triệu của núi sông, khích lệ toàn quân, toàn dân Đại
Việt chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên - Mông xâm
lược nước ta, ba lần chúng chiếm được kinh thành Thăng Long. Nhưng lần thứ nhất
quân dân Đại Việt cho 3 vạn quân Nguyên - Mông<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“ngủ
trọ”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>trên đất nước ta mười một
ngày; lần thứ hai, 50 vạn quân của Thoát Hoan và 10 vạn quân của Toa Đô “<i>ngủ
trọ</i>” hơn ba tháng; lần thứ ba, quân dân Đại Việt cho 30 vạn quân Nguyên –
Mông<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“ngủ trọ”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>32
ngày, sau đó tổng phản công quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Hào khí Thăng Long,
in đậm trong bài “<i>Hịch tướng sĩ</i>” bất hủ của Trần Hưng Đạo. Thế kỷ XV,
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm nằm gai, nếm mật, Bình định vương Lê Lợi và
quân sư Nguyễn Trãi đã đem đại quân bao vây thành Đông Quan vừa uy hiếp quân
giặc, vừa địch vận, vừa diệt viện binh, buộc quân xâm lược phải bó giáo, lên đàn
thề xin rút hết quân về nước. Thế kỷ XVIII, với cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ
sáng mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cùng các tướng sĩ Tây Sơn dũng
cảm tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng, đánh thọc sâu vào kinh thành Thăng
Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long, đồng thời mở ra
giai đoạn hợp nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tấn
công Hà Nội. Hai tấm gương trung dũng, lẫm liệt<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“sống
chết với Thành Hà”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>của Kinh lược
sứ Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu sống mãi với Thủ đô. Trong buổi đầu
chống thực dân Pháp, hai lần quân dân Hà Nội mưu trí giết chết sĩ quan chỉ huy
của quân Pháp là Gácniê và Rivie ở Cầu Giấy. Chưa thể đuổi giặc ra khỏi thành
bằng vũ lực, người dân Hà Nội tìm mọi cách để gây cho quân địch ăn không ngon,
ngủ không yên. Những người yêu nước ở Hà Nội đã kết giao lập hội chống thực dân
Pháp. Khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thanh niên, học sinh và người dân
Hà Nội không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng theo Đảng làm cách mạng. Thời cơ
đến, Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội nhạy bén phất cờ động viên nhân dân nhất tề đứng
lên giành chính quyền, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở
Hà Nội đã cổ vũ nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân
dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hà Nội trở thành Thủ đô của Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giặc Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta,
cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Liên Khu Một với lời thề<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh”<span class="Apple-converted-space"> </span></i>đã
thổi bùng hào khí Thăng Long – Hà Nội, mở đầu cho tám năm trường kỳ kháng chiến.
Tháng 10 năm 1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón mừng đoàn quân Chiến thắng trở về
giải phóng Thủ đô. Đế quốc Mỹ chia cắt đất nước ta, miền Nam còn kẻ thù xâm
lược. Tiếng gọi non sông lại thôi thúc các chàng trai, cô gái Hà Nội tạm gác bút
nghiên, lên đường<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước”</i>. Những người ra đi chiến đấu, in dấu chân trên khắp các
chiến trường, có mặt trong các chiến dịch Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, cuộc Tổng
tiến công nổi dậy ở Huế - Sài Gòn và kết thúc với sự có mặt của Trung đoàn Thăng
Long cắm cờ trên dinh lũy Bộ Tổng tham mưu địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh
giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Những người ở lại vừa tăng gia sản xuất,
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, vừa cầm súng đối mặt với chiến
tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Dưới mưa bom rải thảm của giặc
Mỹ, Hà Nội bình tĩnh, ngoan cường hiệp đồng với các quân, binh chủng lực lượng
vũ trang các tỉnh, thành phố miền Bắc, lập nên kỳ tích<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Điện
Biên Phủ trên không”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>đánh sập<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“uy
thế không lực Hoa Kỳ”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>buộc chúng
phải ký Hiệp định Pa ri rút quân về nước.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Với tấm lòng
yêu nước sắt son, bất khuất, kiên cường, mưu trí, sáng tạo nghìn năm qua người
Thăng Long - Hà Nội đã thể hiện sinh động hào khí Thăng Long trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời
đại mới. Hà Nội là<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thủ đô anh
hùng”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>của dân tộc Việt Nam anh
hùng; Hà Nội là “<i>Thủ đô của phẩm giá con người”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thủ
đô vì hòa bình”</i>; Hà Nội nơi<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“lắng
hồn núi sông ngàn năm”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>tỏa chiếu
văn hiến Thăng Long đi khắp mọi miền của Tổ quốc, trở thành niềm tự hào chung
của đất nước Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Thủ đô, mỗi người
dân Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập vì hạnh phúc lớn của dân tộc.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">2. Truyền
thống nhân nghĩa, khát vọng hòa bình</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Hòa bình là
khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Người Thăng Long – Hà Nội cũng như người dân
đất Việt không bao giờ muốn chiến tranh. Lịch sử đã ghi nhận lòng khoan dung,
nhân ái của nhân dân Thăng Long – Hà Nội ngay cả khi kẻ thù buộc chúng ta phải
cầm gươm, cầm súng tự vệ, nhân dân ta vẫn tìm cách<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“vừa
đánh, vừa đàm”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>cho kẻ thù thoát
khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của, tìm cách cho kẻ thù đường rút danh dự.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Ở vào thời
điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp viện của nhà Minh, giết chết
tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu diệt quân địch trong
thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho quân sĩ cả hai
bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê
Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục tướng giặc. Nguyễn Trãi viết hàng
chục bức thư gửi cho Vương Thông, lời lẽ trong các bức thư vừa thể hiện sự mềm
mỏng, khiêm nhường vừa quyết liệt của người đang làm chủ hoàn toàn chiến trường.
Vương Thông buộc phải mở cửa thành, lên đàn thề xin rút quân. Với tinh thần nhân
đạo cao cả, Lê Lợi đã cấp hàng trăm thuyền, hàng nghìn ngựa, lương thực cho tù
binh, hàng binh nhà Minh về nước. Câu chuyện truyền thuyết về vua Lê trả gươm
thần cho Rùa vàng ở hồ Lục Thủy tiếp nối một cách tự nhiên trong dòng chảy của
lịch sử. Chiến tranh kết thúc hoàn trả Thần Kiếm, đó chính là biểu trưng khát
vọng hòa bình của dân tộc ta giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nhân nghĩa trở
thành truyền thống của dân tộc ta. Trong cuộc giao chiến kẻ địch giơ tay đầu
hàng đều được nhân dân ta khoan hồng, đối xử nhân đạo. Chiến tranh kết thúc,
nhân dân ta trải thảm cho tù binh, hàng binh về nước an toàn. Hài cốt lính địch
bỏ xác trên đất Việt cũng được Nhà nước ta cho tìm kiếm trao trả thân nhân của
họ. Nhân dân Thăng Long ngoài việc chôn cất lập đàn chẩn tế chu đáo, còn tu sửa,
dựng chùa (chùa Bộc) làm nơi quy y cho vong linh binh sĩ của địch. Hận thù nên
cởi, không nên buộc cũng là một triết lý nhân sinh của người Việt. Khắc ghi lịch
sử, xóa bỏ hận thù, không quên quá khứ, hướng tới tương lai, đó là truyền thống
văn hiến, anh hùng Thăng Long – Hà Nội. Với kẻ thù, người Thăng Long - Hà Nội và
người dân Việt Nam luôn thể hiện lòng nhân nghĩa, với đồng bào lòng nhân ái càng
được nâng cao, thể hiện bằng hành động thiết thực. Người dân Thăng Long – Hà Nội
luôn hằng tâm, hằng sản, góp sức chung tay giúp đỡ mọi người trong cơn hoạn nạn<i>.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Đó
là nét đẹp trong cuộc sống của người Thăng Long - Hà Nội.</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="style3" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;">3. Truyền thống tài hoa - trí
tuệ<span class="Apple-converted-space"> </span></span></span><span class="style1" style="font-size: 12px; text-align: left;"><span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; font-size: medium;"><span class="style1" style="text-align: left;"><span class="style5" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">Thăng
Long - Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, là trung tâm tiêu biểu cho nhiều kỷ
nguyên văn minh của dân tộc ta, như: kỷ nguyên văn minh sông Hồng, kỷ nguyên văn
minh Đại Việt, kỷ nguyên văn minh Việt Nam.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thăng Long –
Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ tinh hoa văn hóa – nghệ thuật, hội tụ tri
thức. Trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho Thăng Long – Hà Nội và cũng từ đây trí
tuệ Thăng Long – Hà Nội tỏa chiếu ra mọi miền của đất nước nâng cao tầm trí tuệ
của dân tộc. Thăng Long – Hà Nội là nơi<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“lắng
hồn núi sông ngàn năm”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>là nơi để
các danh nhân, nghệ nhân phát huy tinh hoa. Năm 1070, Thăng Long có Văn Miếu.
Năm 1076, Quốc Tử Giám, nhà Thái học - trường đại học đầu tiên của nước ta được
xây dựng, lò luyện “nguyên khí Quốc gia” qua 124 khoa thi đã đào tạo 2.248 tiến
sĩ, tên tuổi được vinh danh trên bia đá ở Văn Miếu và sử sách. Thăng Long còn có
Giảng Võ Đường, nhà Võ học, đào tạo hàng trăm cống sĩ, võ tướng cho quân đội.
Kinh đô Thăng Long là nơi rèn luyện, đào tạo, sản sinh ra:</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p align="center" class="style4" style="line-height: 17pt; text-align: center;">
“Văn quan cầm bút an thiên hạ.</p>
<p align="center" class="style4" style="line-height: 17pt; text-align: center;">
Võ tướng đề đao định thái bình”.</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Nền giáo dục
Thăng Long – Hà Nội còn lưu danh nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề đã tạo nên
bao học trò thành danh cho đất nước, như: Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Phù Thúc
Hoành, Lê Đức Mao, Đoàn Lệnh Khương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Siêu,
Vũ Tông Phan, Nguyễn Quý Đức, Lương Văn Can…. Noi gương Chu Văn An<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“người
thày của muôn đời”</i>, nhiều nhà giáo đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp
trồng người, trung thực với nghề, cam sống hàn vi, không ham danh vọng, bổng
lộc. Khẩu ngữ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Tiên học lễ, hậu
học văn”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>còn để lại tới hôm nay.
Thăng Long – Hà Nội còn tiêu biểu cho nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nơi
hội tụ khách văn chương cả nước. Một thi xã Tao Đàn đời Hồng Đức làm sáng cả
mảng văn học thời Lê. Một văn phái Ngô Thì với bao tác phẩm văn chương đồ sộ,
khiến trăm họ ngưỡng mộ. Bên những văn nhân, thi nhân người Hà Nội, như: Nguyễn
Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng,
Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lý Văn Phức, bà huyện Thanh Quan…còn
có những ngôi sao gốc tứ trấn, có người sinh ở Hà Nội, như: Lý Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương..., có người xứ Đoài, xứ
Đông, xứ Bắc, xứ Nam, như: Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Thân Nhân Trung,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn…sự nghiệp, công danh được lập trên
đất Thăng Long.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thăng Long –
Hà Nội là nơi đào tạo trí thức lớn nhất cả nước, trí tuệ, nhân cách của trí thức
Hà Nội tỏa sáng. Các sĩ tử học đạo Thánh hiền, các<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“tao
nhân, mặc khách” bầu rượu, túi thơ”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>trọng
nghĩa, trọng tài lập nghiệp thành danh trên đất đế đô đều có chung phong cách
đối nhân, xử thế lịch duyệt, tao nhã. Chí sĩ Hà Thành yêu nước, trọng nghĩa,
trọng tài, nhân ái bao dung trong cả vinh lẫn suy; trước tiền bạc, cám dỗ luôn
biết kiềm chế không để mất nhân cách; trước hiểm nguy luôn bình tĩnh, sáng suốt
tìm đối sách hợp lý; trước kẻ thù, trước cái chết luôn cứng rắn, không run sợ,
giữ thần thái, khí tiết. Bên cạnh những nhà chính trị cách mạng, nhà quân sự,
nhà giáo, nhà văn Thăng Long – Hà Nội còn có những nghệ nhân, những người thợ
tài hoa đã làm sáng danh đất Kẻ Chợ. Nghệ nhân và người thợ đến kinh kỳ đem theo
nghề chuyên từ quê nhà, nhu cầu và đòi hỏi khắt khe của khách hàng kinh đô đã
làm cho họ có điều kiện rèn luyện tay nghề. Thăng Long - Hà Nội vùng đất trăm
nghề, nghề nào cũng khéo. Tên nghề ở Thăng Long - Hà Nội thường gắn với tên
làng, tiếng thơm của nhiều làng nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội nức tiếng gần
xa, như: đúc đồng Ngũ Xã, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, the La Cả, lụa trắng
Cổ Đô, nón làng Chuông, thêu Quất Động, khảm xà cừ Chuôn Tre....Đất lành, mới
đầu chỉ là những tốp thợ ra trú ngụ làm theo thời vụ, dần dà họ kéo theo người
trong dòng tộc, người cùng làng ra ở hẳn Thăng Long – Hà Nội. Họ lập nên phường
hội, lập phố hàng... vừa sản xuất, vừa kinh doanh góp phần làm thay đổi khu vực<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thị”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Họ
trở thành người Thăng Long – Hà Nội, cuộc sống gắn bó với thăng trầm của vùng
đất này. Sinh cơ lập nghiệp, an cư ở đất kinh kỳ nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng
về quê hương, gốc tổ. Nhiều dòng tộc, phường nghề đã lập đền miếu thờ vọng tổ
nghề, thành hoàng làng trên đất Thăng Long – Hà Nội, các di sản quý báu đó được
người Hà Nội trân trọng, tự hào gìn giữ và phát huy.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Đất Thăng Long
– Hà Nội nghìn năm văn hiến đã góp phần tạo nên nhân tài và các thế hệ nhân tài
đã bồi đắp trở lại cho trái tim đất nước ngày càng xứng đáng tiêu biểu cho nền
văn hiến Việt Nam. Không chỉ hội tụ, mà còn tỏa sáng. Theo tiếng gọi của non
sông, người Thăng Long - Hà Nội sẵn sàng gác bút nghiên đi bảo vệ biên cương,
sẵn sàng đi mở đất, xây dựng quê hương mới, đáp ứng yêu cầu của mọi miền Tổ
quốc. Tuổi trẻ Thủ đô hôm nay luôn nêu gương<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“đâu
cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Ở
bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, họ cũng phấn đấu hết mình để không hổ thẹn là
người Thăng Long – Hà Nội, không hổ thẹn với cha ông:</font></p>
<span class="style1" style="text-align: left;">
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<p class="style3" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">4. Phẩm chất
thanh lịch – văn minh Thăng Long - Hà Nội</p>
<p class="style4" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">“Chẳng thơm
cũng thể hoa nhài</p>
<p class="style4" style="line-height: 17pt; text-align: justify;">Dẫu chưa thanh
lịch cũng người Tràng An”</p>
</span></span>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Tràng An là
chỉ kinh đô Thăng Long – Hà Nội.<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thanh
lịch”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>hàm nghĩa rộng của phong
cách sống đẹp từ trong nhà ra xã hội, từ ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn học,
ăn chơi, đi đứng cho đến phép giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa người
với thiên nhiên, môi trường.<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Thanh”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>có
nghĩa là thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm với của cải xã
hội; thanh bạch – thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh nhã trong cử chỉ,
hành động.<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Lịch”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>phải
chăng là con người cần có sự lịch lãm, lịch thiệp trong giao tiếp, ứng xử; lịch
duyệt – hiểu biết rộng. Nếu như<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thanh”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>muốn
có phải học hỏi, tu dưỡng rèn luyện, thì ở<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“lịch”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>lại
do sự từng trải và kinh nghiệm sống đem đến. Có đủ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thanh
lịch”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>mới trọn vẹn.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Thăng Long –
Hà Nội là nơi tụ hội người dân của mọi miền Tổ quốc, là điểm đến và sinh cơ lập
nghiệp của một số kiều dân nước ngoài. Đến kinh đô, họ mang theo tinh hoa quê
hương đến góp cho Thăng Long - Hà Nội, nhưng cũng đồng thời mang theo tập quán
quê cũ. Kinh đô Thăng Long - Hà Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những
cái đẹp nhỏ nhất của bốn phương để làm giàu cho mình, đồng thời cũng loại bỏ
những gì không thích hợp để rồi ổn định, định hình, định tính, định vị cái thanh
lịch cũng như tán phát văn hóa Thăng Long đi muôn nơi. Nét đặc trưng văn hóa
Thăng Long là sự hòa hợp nếp sống giữa người dân Hà Thành với<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“người
tứ chiếng”</i>, giữa<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“người đồng
văn, đồng chủng”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>với người nước
ngoài. Bên cạnh những nét riêng trong các yếu tố nhân chủng, thể chất, ngôn ngữ,
người Hà Nội có một số tư chất, nội tâm, đường ăn nết ở tài hoa, thanh lịch,
kiên cường. Cái tư chất người Hà Nội thời phong kiến là giữ được cái căn tính
của nền văn minh lúa nước. Cái chất của người Hà Nội thời Pháp thuộc là tài hoa
và khí phách cách mạng anh hùng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế, người Hà Nội phát huy tinh thần năng động, sáng tạo đã được hun đúc
qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Người Thăng Long - Hà Nội tự hào về cái<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thanh
lịch”</i>của mình. Cái thanh lịch của Thăng Long - Hà Nội thể hiện trong nhiều
mặt. Trước hết là thể hiện ở lời nói. Tiếng nói của người Thủ đô chuẩn xác cao,
thanh âm mẫu mực. Người Thăng Long - Hà Nội vận dụng từ ngữ khéo léo, nhã nhặn,
tế nhị. Trong giao tiếp, biết nhún mình, tôn trọng người, mềm mỏng mà không thớ
lợ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không làm cao. Người thợ thủ công
trên đất Thăng Long – Hà Nội giữ cái tố chất tương trợ, phường hội giúp đỡ lẫn
nhau, bênh vực lẽ phải, bênh vực<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“kẻ
yếu”</i>. Người nông dân giữ cái thuần phác, cần cù<i>“biết nhịn”, “biết nể”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Nho
sĩ, hàn sĩ giữ cái cốt cách của người học đạo thánh hiền lời nói văn vẻ, dễ
nghe, còn một tấm áo lụa, ra đường còn nho nhã, còn một đồng trong túi là không
để mâm cơm đãi khách phải ngọ ngằn.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Ngạn ngữ có
câu<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Ăn Bắc, mặc Kinh”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Thăng
Long - Hà Nội là kinh đô đồng thời cũng tiêu biểu cho xứ Bắc. Ăn, mặc của người
Thăng Long - Hà Nội cũng toát nên chất thanh lịch. Người Thăng Long - Hà Nội rất
sành trong ăn uống, nâng cách ăn uống, chế biến món ăn thành nghệ thuật ẩm thực.
Món ăn chế biến, mặn, ngọt, chua, cay vừa độ, gia vị đầy đủ; nước chấm, nước
canh khéo chế. Bữa ăn ngon từ cách bày đĩa, xếp mâm, lên cỗ. Nét văn hoá bộc lộ
trong ăn uống cũng tinh tế, phong phú.<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“Ăn
trông nồi, ngồi trông hướng”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Vào
mâm cơm người Thăng Long – Hà Nội trọng người già, quý trẻ em, nhường nhịn món
ăn ngon, gắp tiếp trước cho khách. Ăn uống từ tốn, nhai nuốt thong thả. Ăn để
thòm thèm, nhớ mãi. Người Thăng Long – Hà Nội lịch sự trong cách mặc. Trang phục,
trang sức ưa sự gọn gàng, trang nhã, tề chỉnh, cách tân tinh tế, đủ độ lộng lẫy,
kiêu sa. Người Thăng Long - Hà Nội thích<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“diện”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>thích
đổi<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“mốt”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>làm
đẹp phố phường. Cái<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“diện”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>của
con người vùng đất này cũng mang<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“tư
chất”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>kín đáo, tế nhị, không cầu
kỳ, biết nâng<i>“cái đẹp”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>đồng
hành với<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“cái nết”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Người
Thăng Long - Hà Nội xưa ra đường là mặc áo dài, khăn nón, giày guốc đầy đủ.
Khách đến chơi nhà, chủ nhà giữ lễ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“tôn
trọng mình, tôn trọng khách”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span><i>“ăn
vận”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>quần áo gọn gàng, tươm tất
rồi mới tiếp khách. Con gái Thăng Long - Hà Nội giữ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“công,
dung, ngôn, hạnh”,</i><span class="Apple-converted-space"> </span>giữ đủ nét e
lệ, dịu dàng, giữ gìn ý tứ từ dáng đi, nụ cười, ánh mắt, đồ trang sức vừa đủ, ít
người đeo vàng, ngọc đầy cổ, đầy tay. Trong giao tiếp, ứng xử người Hà Nội không
chỉ giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống mà còn tiếp thu tinh hoa văn minh,
hiện đại của bốn phương. Trước đây người Hà Nội đón tiếp khách quý là chắp tay
vái chào, nay bắt tay cởi mở. Từ chỗ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“nam
nữ thụ thụ bất thân”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>đã đi tới
bình đẳng giới, xây dựng được nét đẹp tôn trọng người già, nhường nhịn phụ nữ,
quý mến trẻ thơ, giúp đỡ người già yếu, khuyết tật, lịch sự thân thiện với người
mới đến, người nước ngoài. Gặp vướng mắc, va chạm thì ứng xử ôn hoà, không đối
đầu, bạo lực, luôn mong muốn giải quyết êm đẹp, phục thiện.</font></p>
<p style="line-height: 17pt; text-align: justify;"><font size="2">Gia đình là
cái nôi nuôi lớn tâm hồn con người. Gia đình là tế bào quyết định chất lượng xã
hội. Xây dựng và bảo toàn mái ấm gia đình là điều kiện cơ bản cho hôm nay và
ngày mai đi lên của đất nước. Muốn thế phải phải giữ được<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“nếp
nhà”.</i><span class="Apple-converted-space"> </span>Chữ<i>“hiếu”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>không
cổ hủ mà thích nghi với hoàn cảnh mới. Trong gia đình, người Thăng Long - Hà Nội
coi trọng giữ gìn nề nếp, gia phong. Dạy bảo con cháu, người Thăng Long - Hà Nội
lấy chữ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“hiếu”</i><span class="Apple-converted-space"> </span>với
ông bà, cha mẹ làm đầu, chữ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“hiền
thảo</i>” với dâu rể, chữ<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“thành
đạt</i>” với con cháu. Ông bà, cha mẹ lấy cái mẫu mực, làm gương cho con cháu
noi theo. Cuộc sống phố phường sôi động, nhưng người Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ
được nét đẹp của sinh hoạt tâm linh và cộng đồng đầy tính thiện như: hái lộc đầu
xuân, đi lễ đền chùa cầu lành, cầu mát, cầu quốc thái, dân an, thắp hương thờ
cúng tổ tiên, cúng giao thừa, năm mới xông đất chúc tụng nhau, đến Văn Miếu xin
chữ Thánh hiền đầu xuân. Các cụ ông, các tài tử, văn nhân có cái thú uống trà,<span class="Apple-converted-space"> </span><i>“nuôi
cá dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính”, “nuôi lan tích đức”</i>, dựng hòn non bộ,
trồng cây cảnh để cân bằng phong thủy. Với môi trường thiên nhiên, môi trường đô
thị, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội đang xây dựng được nét
ứng xử đẹp phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Nhân cách của người Thăng
Long - Hà Nội hôm nay được xây dựng trên tổng hoà các giá trị văn hiến truyền
thống và hiện đại. Nâng cao phẩm chất trí tuệ, tài năng, tâm hồn, tình cảm, lý
tưởng và hành động mang bản sắc Thăng Long – Hà Nội, xây dựng Thủ đô Hà Nội văn
minh, hiện đại xứng tầm với thành phố nghìn năm tuổi là vinh dự và trách nhiệm
của mỗi người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội nói riêng./.</font></p>
<span class="Apple-style-span" style="border-collapse: separate; color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: 2; text-align: auto; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: 2; word-spacing: 0px; -webkit-border-horizontal-spacing: 0px; -webkit-border-vertical-spacing: 0px; -webkit-text-decorations-in-effect: none; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px;">
<span class="style1" style="text-align: left;">
<p class="style6" style="line-height: 17pt;">BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG</p>
</span></span></span></span></span></span>
<p class="style2"> </p>
</body>
</html>