<html>
<head>
<meta http-equiv="Content-Language" content="en-us">
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252">
<title>Nữ đội trưởng biệt động thành tu</title>
</head>
<body>
<p align="center"><b><font face="Arial" color="#0000FF" size="2">Nữ đội trưởng
biệt động thành tuổi 17 và 8 lần được gặp Bác Hồ</font></b></p>
<p align="justify"><b><font face="Arial" size="2"><em>Hơn 30 năm về trước, chị
là một trong những nữ chiến sĩ biệt động thành nổi tiếng từng tung lựu đạn vào
đám cố vấn Mỹ giữa thanh thiên bạch nhật; người con gái một lòng kiên trung với
Đảng, từng bị đóng đinh 5cm vào đầu mà vẫn không khai ra đồng đội… Chị là Trần
Thị Kim Cúc, sinh năm 1945. Trong căn nhà nhỏ bé, tuềnh toàng số 159 trên con
phố nhỏ Thanh Long, quận Hải Châu, TP Đà Năüng, tôi hỏi chị chuyện năm xưa, quá
khứ đau thương và hào hùng ùa về, cùng đôi dòng lệ tràn dâng trong khóe mắt nhăn
nheo của chị.</em></font></b></p>
<div align="justify">
<font face="Arial" size="2" color="#008000"><strong>Chiến công xen lẫn đòn
thù</strong></font></div>
<div align="right">
<table align="right" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1" id="table1">
<tr>
<td>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">
<img border="0" src="nu%20doi%20truong%20biet%20dong%20thanh.JPG" width="200" height="147">
</font></td>
</tr>
<tr>
<td class="Image">
<p align="center"><font color="#808080" face="Arial" size="2"><i>Chị
Cúc cùng chồng chụp hình chung với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại
Phủ Chủ tịch. (</i><em>Ảnh tư liệu do chị Cúc cung cấp</em><i>).</i></font></td>
</tr>
</table>
</div>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Năm 14 tuổi, người anh cả bị giặc
Pháp giết trong một trận đánh ở mặt trận Đại La. Đau thương và căm hận “giằng xé”,
Cúc xin đứng vào hàng ngũ đội du kích xã để được đánh giặc trả thù cho anh. <br>
<br>
Trận mở màn ở cầu Túy Loan (Hòa Phong, huyện Hòa Vang), để chặn bước tiến của
giặc Pháp, Cúc chịu trách nhiệm kiếm dầu lửa, rơm, củi khô, mấy anh du kích trộm
hắc ín của giặc. Đêm xuống, dùng bè chuối đốt cháy thả xuôi theo dòng nước để bè
vướng chân cầu, gây cháy ở đồn Phú Hòa. Tiếp đó, năm 1962, chị cùng anh Phạm Nổi
thành viên trong nhóm đi “xem xi nê” (xem lính Mỹ). <br>
<br>
Biết có tốp cố vấn Mỹ đầu tiên đến Đà Nẵng để huấn luyện cho ngụy quân. 9 giờ
sáng, hai anh em nấp bên vách đá gần biển Tiên Sa xem chúng huấn luyện. Thấy
chúng gần quá, anh Nổi móc túi lấy hai quả M26 kêu Cúc cùng đánh. Liệng xong 2
quả đạn, hai anh em lên xe đạp chạy. Tiếng nổ vang vách núi, bọn Mỹ bị thương
rống lên như bò. Dọc đường, bị quân cảnh xét dữ quá, trong người còn có khẩu
Rulô, hai anh em ghé đại vào một quán mì Quảng và thảy súng vô nồi nước lèo, rồi
đi tiếp. <br>
<br>
Bà chủ quán sợ quá, mặt cắt không còn chút máu. “Lần khác, anh Phạm Nổi lại trộm
được tài liệu. Tôi cùng ảnh và một người khác vô hotel Catina bên sông Hàn hội
ý. Vừa gói xong tài liệu vô mảnh giấy thiếc, linh tính có bố ráp, hai ảnh nhanh
chân tụt ống nước nhảy xuống tầng trệt. Tôi kẹt lại, loay hoay cố giấu tài liệu
vào chỗ kín... Vậy mà lần đó thoát” - Chị Cúc nhớ lại.<br>
<br>
Sau mấy lần tham gia đánh giặc, Cúc nhận nhiệm vụ giao liên giữa “các chú” với
những cơ sở bí mật trong xã. Mấy năm hoạt động ở Hòa Vang, bị lộ, chị lánh xuống
Đà Nẵng trong vai người đi ở đợ để tiếp tục hoạt động. Chính thời gian này, bằng
sự khéo léo, Cúc đã vận động được hàng chục binh lính cộng hòa quay về với cách
mạng và được bầu làm Đội trưởng biệt động thành ở tuổi 17. <br>
<br>
Giờ đây, ở tuổi 62, chị không còn minh mẫn để nhớ rõ bao lần bị bắt, bị tra tấn
dã man bằng chày sắt hộc máu mồm, máu mũi; phơi nắng; vứt vô hầm đất, đổ xà
phòng vô miệng, dùng dây thừng câu rút lên xà nhà rồi lấy kim đâm vào lưng, vào
ngực… <br>
<br>
Nhưng chị nhớ mãi là lần kẻ thù đập vỡ bóng đèn nê-on nhét vào “cửa mình” chị để
lấy lời khai… Bị tra tấn chết đi sống lại nhiều lần, nhưng kẻ thù vẫn không
“cạy” được một lời từ chị, giặc đã giở chiêu tàn độc: đóng đinh vào đầu chị. Chị
kể: “Hôm đó, đánh một chặp máu me bê bết, thấy tôi vẫn trơ lỳ, mấy thằng mật
thám khu 11 đem ra một cây đinh trắng chừng 5cm để trước mặt, một thằng có nước
da đen thui, mắt híp như lươn, cầm cây đinh huơ trước mặt tôi và nói:</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">“Cái này đã vào sọ não thì sức
mấy mà mày cứng…”. </font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Tôi nằm im, chúng lật úp tôi lại
trên chiếc ghế dài, trói chặt rồi từ từ đóng cây đinh vào đầu, cảm giác đau đớn,
tê buốt tràn khắp cơ thể, mắt như bị ai lấy que hương chọc vô, tôi chết giấc,
lịm đi... Những cơn động kinh dai dẳng sau này cũng bắt đầu từ đó...”.</font></p>
<div align="justify">
<font face="Arial" size="2" color="#008000"><strong>8 lần được gặp Bác Hồ</strong></font></div>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Bữa cơm chiều ngày 19-5-1966 tại
Bệnh viện Việt – Xô (thời gian này chị đã được thả và cấp trên đưa chị ra Bắc
dưỡng thương) qua đi nhanh chóng khi chị được thông báo: “Lát nữa có người trong
Phủ Chủ tịch đến thăm!”. <br>
<br>
Đúng 7 giờ tối, thoáng thấy dáng hai người, một người thanh mảnh có chòm râu bạc,
bên cạnh là một người trẻ (sau này chị mới biết đó là chú Vũ Kỳ) hiện ra trước
cửa. Thấy Người mặc bộ áo bà ba màu nâu thẫm, ở ngoài khoác chiếc áo bờ-lu trắng
giản dị, bước rất nhanh vào phòng bệnh. Tôi líu lưỡi, nghẹn giọng thốt lên với
chị Mười (cùng buồng bệnh): “Bác Hồ…! Chị ơi!”. Tôi muốn chạy lại ôm Bác, nhưng
đôi chân cứ dính chặt vào đất… Bác vẫy tay và nói: “Hai cháu ngồi ở đó, đừng
chạy ra”. Tôi cứ ngỡ mình đang mơ. </font></p>
<div align="right">
<table align="right" border="0" cellpadding="3" cellspacing="0" width="1" id="table2">
<tr>
<td>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">
<a onclick="return openImageNews(this,196,250)" href="http://www.sggp.org.vn/dataimages/original/images153604_z4d.jpg">
<img style="width: 200px; height: 152px" src="http://www.sggp.org.vn/dataimages/original/images153604_z4d.jpg" border="0" height="167" width="200"></a>
</font></td>
</tr>
<tr>
<td class="Image">
<p align="center"><font color="#808080" face="Arial" size="2"><i>Tấm
ảnh Bác Hồ và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký tặng chị Cúc. (</i><em>Ảnh
tư liệu do chị Cúc cung cấp</em><i>).</i></font></td>
</tr>
</table>
</div>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Bác nhìn chúng tôi trìu mến, dịu
dàng vuốt nhẹ mái tóc tôi. Nước mắt cứ chảy trào ra, tôi ngồi xuống ôm Bác, ngắm
nhìn Bác mãi. Bác đưa tay đặt nhẹ lên vết thương trên đỉnh đầu tôi, ân cần, lo
lắng hỏi: “Đau như vậy, đêm cháu có ngủ được không? Cháu ăn có ngon miệng không?”.
“Dạ, cháu chỉ ăn được chút chút”. Bác đưa tay vẫy anh Bình, Chủ nhiệm khoa lại
gần, căn dặn: “Chú phải theo dõi cả việc ăn uống của các cháu, nhắc nhà bếp phải
đổi món và chế biến thức ăn cho hợp khẩu vị...”.<br>
<br>
Tôi và chị Mười nghẹn ngào, không cất nên lời. Bác lại nhìn chúng tôi trìu mến,
dặn dò: “Cháu Mười ở Mỹ Tho, cháu Cúc ở Quảng Nam, mỗi cháu công tác mỗi nơi,
nhưng về nằm viện phải biết đoàn kết, thương yêu và săn sóc nhau, coi nhau như
ruột thịt. Các cháu phải cố gắng ăn nhiều hơn; uống thuốc, ăn cơm cần như nhiệm
vụ đánh Mỹ”. Tôi nghe những lời Bác nói mà cảm động, nước mắt cứ tuôn trào. Bác
lấy khăn mùi xoa, thấm nước mắt cho hai chị em. Bác động viên chúng tôi: “Bác
đến thăm các cháu, bây giờ hai cháu cho Bác về chưa nào?”. Tôi và chị Mười nhìn
nhau, không muốn rời xa Bác... <br>
<br>
Thời gian ở miền Bắc và sau này sang Trung Quốc chữa bệnh, chị còn được Bác mời
vào nhà sàn ăn cơm cùng Bác Tô (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng), xem văn nghệ nhiều
lần. Lần thứ 8 chị được gặp Bác, sức khỏe Bác đã yếu đi nhiều. Biết chị học ở
Trường bổ túc Hưng Yên đạt loại giỏi, Bác mừng lắm nhưng vẫn căn dặn chị không
được học quá sức kẻo ảnh hưởng đến vết thương. Bác còn dặn chú Tô: “Sau này tôi
có mệnh hệ gì không lo được cho cháu Cúc và cháu Lý (anh hùng Trần Thị Lý) thì
nhờ chú chăm sóc hai cháu đến nơi đến chốn”. <br>
<br>
Lúc đó tôi chỉ biết khóc. Đó cũng là lần cuối cùng chị được thấy Bác. Trở về
trường vài tháng, chị được tin Bác mất qua Đài tiếng nói Việt Nam. Chị ngất đi
không biết bao nhiêu lần trong tiếng nấc… “Bác ơi!”.<br>
<br>
… Bây giờ, trong căn nhà nhỏ đầm ấm của mình, chị vẫn sống trọn vẹn với phẩm
chất người chiến sĩ biệt động năm xưa. Niềm vui lớn nhất của chị là 2 người con
trai và 1 người con gái đã trưởng thành, đều phục vụ trong quân đội. Chị vẫn răn
dạy con bằng lời căn dặn của Bác năm xưa: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”.</font></p>
<p align="right"><b><i><font face="Arial" size="2">Theo SGGP</font></i></b></p>
</body>
</html>