<html> <head> <meta http-equiv='Content-Type' content='text/html; charset=utf-8'> <title> </title> </head> <P align=center > <FONT style="FONT-WEIGHT: 700; FONT-SIZE: 14pt" face=Arial color=#9d0202 > Đề cương tuyên truyền về Luật thanh niên</FONT > </P >
<P align=justify > <FONT face=Arial size=2 > <FONT color=#16599c > <B > I. Sự cần thiết ban hành Luật thanh niên</B > </FONT > <BR > <B > <BR > 1.1. Tình hình thanh niên hiện nay đòi hỏi phải ban hành Luật thanh niên.<BR > <BR > </B > Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay thanh niên có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, khoa học công nghệ cao hơn trước, đời sống vật chất, tinh thần và sức khoẻ được nâng cao, có khát vọng vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, mong muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. ý thức tự lập thân, lập nghiệp, lòng nhân ái, nhân văn, tính tích cực xã hội, tinh thần xung phong tình nguyện thanh niên đang được phát huy và thể hiện trên nhiều lĩnh vực.<BR > <BR > Tuy nhiên, đứng trước những cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, trong thanh niên cũng còn bộc lộ những hạn chế: Trình độ học vấn chuyên môn kỹ thuật tuy có cao hơn trước nhưng còn hạn chế về tư duy sáng tạo, về năng lực vận dụng những điều đã học vào giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhìn chung thanh niên Việt Nam còn thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển và hội nhập, như trình độ tin học, ngoại ngữ, giao tiếp, hợp tác, tính chủ động sáng tạo, khả năng tự lập, khả năng thích ứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.<BR > <BR > Công cuộc đổi mới đất nước trong những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo ra những điều kiện tốt hơn cho việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò thanh niên. Nhưng đồng thời, thanh niên cũng đang cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới, như sự phân hoá giàu nghèo, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội, tỷ lệ ly hôn tăng, nhất là trong các cặp vợ chồng trẻ; lối sống thực dụng, chạy theo tiền bạc, coi thường giá trị văn hoá dân tộc...đang tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của bộ phận thanh niên. Tỷ lệ thanh niên đô thị thất nghiệp, thanh niên khu vực nông thôn thiếu việc làm còn cao; số lao động trẻ qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp (mới đạt khoảng trên 15%). Nhiều thanh niên được đào tạo cơ bản có trình độ, năng lực nhưng chưa được sử dụng hợp lý. Tầm vóc, thể lực của thanh niên tầm vóc cơ thể thanh niên tuy có tiến bộ nhưng còn chưa theo kịp các nước trong khu vực.<BR > <BR > Tình trạng vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê của các cơ quan pháp luật, năm 2002 có hơn 70% số tội phạm hình sự và gần 80% số người mắc tệ nạn ma tuý, mại dâm là thanh niên, khoảng 70,6 % số người nhiễm HIV ở độ tuổi dưới 30.<BR > <BR > Những năm gần đây, số thanh niên lao động nhập cư từ nông thôn về thành phố, về làm việc tại các khu công nghiệp, thanh niên đi học tập, lao động ở nước ngoài tăng nhanh (TP Hồ Chí Minh có khoảng 1,2 triệu lao động nhập cư, trong đó có tới trên 70% là thanh niên, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai có hàng trăm nghìn thanh niên lao động trong các khu công nghiệp, cả nước có khoảng 4 vạn thanh niên đi xuất khẩu lao động), tỷ lệ thanh niên nghèo, thanh niên có hoàn cảnh đặc biệt… còn cao, đang tạo nên áp lực lớn đối với công tác quản lý nhà nước và việc đảm bảo các điều kiện để cải thiện đời sống cho người lao động, trong đó có lao động trẻ.<BR > Những điểm mạnh, yếu, khó khăn và thách thức trên đây của thanh niên đòi hỏi phải ban hành Luật thanh niên, nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của thanh niên, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến thanh niên, tạo ra môi trường pháp lý, kinh tế, văn hoá và xã hội lành mạnh cho thanh niên học tập, rèn luyện và phát huy đầy đủ tiềm năng của mình, góp phần hình thành và phát huy nguồn nhân lực thanh niên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. <BR > <BR > <B > 1.2. Việc ban hành Luật thanh niên là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên.<BR > <BR > </B > Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định công tác thanh niên là công tác của Đảng, một trong các vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Tại án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động tháng 10 năm 1930, Đảng ta khẳng định : "Thanh niên lao động đã thành một lực lượng cách mạng quan trọng không thể không kể tới được". Trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quan trọng về công tác thanh niên. Trong các văn bản này, Đảng ta không chỉ khẳng định vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, mà còn khẳng định sự cần thiết phải tăng cường quản lý nhà nước đối với thanh niên, ban hành Luật thanh niên, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để các cấp, các ngành và mỗi công dân chăm lo bồi dưỡng, giáo dục và phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên. Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới khẳng định : “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.<BR > <BR > Thực hiện các chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên, những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách nhằm chăm lo cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò to lớn của thanh niên, nhưng việc thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với thanh niên còn hạn chế, chưa mang tính toàn diện và thiếu đồng bộ; việc ban hành Luật Thanh niên theo yêu cầu tại Nghị quyết 26 của Bộ chính trị (khoá V), Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ mới và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chưa được thực hiện. Một số chính sách chưa phù hợp thực tiễn và chậm được bổ sung, sửa đổi như các chính sách liên quan đến giáo dục và đào tạo, chính sách dạy nghề và tạo việc làm, chính sách sử dụng trí thức trẻ, chính sách tài năng trẻ, chính sách chăm sóc sức khoẻ và phát triển nền thể thao hiện đại, chính sách quản lý và hưởng thụ văn hoá.... Việc xác định thẩm quyền quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi. ở không ít đơn vị, địa phương việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, đoàn thể với Đoàn TNCS Hồ Chi Minh và Hội LHTN Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam trong việc thực hiện các chính sách đối với thanh niên còn thiếu chặt chẽ. Sự thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên của Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý, của các cấp, các ngành, của gia đình và các chủ thể xã hội khác còn thiếu cơ sở pháp lý và các cơ chế phối hợp thích hợp, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc bảo vệ, chăm lo bồi dưỡng, phát huy thanh niên cũng như đầu tư cho công tác thanh niên, làm cho việc giáo dục, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực thanh niên tiếp tục khó khăn, lúng túng và hiệu quả chưa thực sự cao.<BR > <BR > Nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên đây là chúng ta còn thiếu cơ sở pháp lý để thực thi công tác thanh niên. Vì vậy, việc ban hành Luật thanh niên hiện nay là cần thiết và cấp bách, là quá trình thể chế hoá đầy đủ các chủ trương của Đảng về công tác thanh niên, tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc giáo dục, bồi dưỡng để hình thành thế hệ thanh niên kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.<BR > <BR > <B > 1.3. Việc ban hành Luật thanh niên là đòi hỏi của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.<BR > <BR > </B > Công tác thanh niên do Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện bằng các chỉ thị, nghị quyết và các chủ trương công tác khác. Nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức căn cứ chủ trương của Đảng để tổ chức triển khai thực hiện. Trong thời kỳ mới, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên không chỉ thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương, mà còn thông qua việc lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế các chủ trương đó bằng các chính sách, pháp luật, đưa các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống. Công tác thanh niên, do đó cũng được quản lý bằng pháp luật, bằng hệ thống tổ chức của nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp, gia đình, nhà trừơng và các chủ thể xã hội khác. Điều 66, Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí lực, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc”.<BR > <BR > Việc ban hành Luật thanh niên là quá trình cụ thể hoá Hiến pháp, là đòi hỏi của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến thanh niên, góp phần xác định và đề cao trách nhiệm của Nhà nước, các cấp, các ngành, gia đình và xã hội đối với thanh niên và công tác thanh niên, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy việc thực hiện chủ trơng xã hội hoá công tác thanh niên, huy động các nguồn lực xã hội trong việc chăm lo giải quyết các nhu cầu chính đáng của thanh niên.<BR > <B > <BR > 1.4. Việc ban hành Luật thanh niên đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của Nhà nước ta, trong đó có lĩnh vực thanh niên.</B > <BR > <BR > Vấn đề thanh niên luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế, đặc biệt là cơ quan Liên hiệp quốc. Tại hầu hết các quốc gia, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, Nhà nước đều có các chủ trương đối với thanh niên. Các chủ trương này (có thể tồn tại dưới dạng văn bản luật, chính sách, chương trình, hay chiến lược...) đều hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên và phát huy tốt nhất tiềm năng của thanh niên, phục vụ sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Quốc gia thịnh hay suy, phát triển hay không phát triển và phát triển theo chiều hướng nào, một phần rất quan trọng phụ thuộc vào việc bồi dưỡng, phát huy cũng như định hướng cho thanh niên. Để làm được việc đó, các quốc gia đều ban hành các chính sách/ luật pháp ở các mức độ và hình thức khác nhau với đối tượng tác động chính là thanh niên và các chủ thể xã hội liên quan đến thanh niên, bao gồm cả hệ thống bộ máy các cơ quan nhà nước.<BR > <BR > Trong bối cảnh đó, việc ban hành Luật thanh niên của Việt Nam không chỉ khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với thanh niên, mà còn tạo thêm những điều kiện pháp lý cần thiết và tương thích, giúp cho việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên phù hợp với yêu cầu của các chuẩn mực quốc tế về thanh niên và công tác thanh niên.<BR > <BR > Tóm lại: Việc ban hành Luật thanh niên là cần thiết và cấp bách, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến thanh niên, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ban hành các chính sách, cơ chế bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thanh niên, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tiềm năng to lớn của thanh niên trong phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước, các tổ chức trên thế giới, góp phần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng thanh niên, bảo vệ thanh niên trước tác động của những tiêu cực và tệ nạn xã hội, sự tấn công của các thế lực thù địch, đề cao trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.<BR > <BR > <FONT color=#16599c > <B > II. Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật thanh niên</B > </FONT > <BR > <BR > <B > 2.1. Quán triệt và thể chế hoá quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, cụ thể hoá Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về thanh niên và công tác thanh niên.<BR > <BR > 2.2. Tư tưởng xuyên suốt của dự án Luật thanh niên là nhằm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của thanh niên trong thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. <BR > </B > Dự án Luật Thanh niên cần làm rõ quyền và nghĩa vụ của thanh niên; làm rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong việc đảm bảo cho thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình<B > . <BR > <BR > </B > Dự án Luật thanh niên được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý thực hiện chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh niên, quan tâm, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của thanh niên để họ trở thành nguồn nhân lực có chất lượng cao đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tăng cường quản lý Nhà nước về công tác thanh niên. <BR > <B > <BR > 2.3. Dự án Luật thanh niên phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm tính khả thi và bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. <BR > </B > <BR > <FONT color=#16599c > <B > III. Quá trình xây dựng dự án Luật thanh niên<BR > <BR > </B > </FONT > Quá trình xây dựng dự án Luật Thanh niên có thể chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1983 đến năm 1989, giai đoạn thứ hai từ năm 1995 đến năm 2005.<BR > <BR > Dự án Luật thanh niên đã được Hội đồng Nhà nước đưa vào kế hoạch xây dựng pháp luật 5 năm (1981 - 1985) và Trung ương Đoàn đã được giao chủ trì biên soạn. Từ đầu năm 1982, Trung ương Đoàn đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành soạn thảo Luật Thanh niên. Các cuộc khảo sát về tình hình thanh niên và công tác thanh niên đã được triển khai tại gần 30 tỉnh, thành trong cả nước và vài chục cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức để thu thập ý kiến xây dựng Luật Thanh niên. Đến năm 1989, dự án Luật thanh niên đã được dự thảo tới lần thứ 12 và đã được trình lên Hội đồng Nhà nước. Tuy nhiên, vào thời điểm này, tình hình quốc tế có nhiều biến động lớn. Đất nước đã bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện từ năm 1986, đặc biệt là tiến hành nhiều đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế. Nhiều vấn đề được đề cập trong dự thảo lần thứ 12 Luật thanh niên trên cơ sở nghiên cứu tình hình kinh tế – xã hội của giai đoạn trước đã tỏ ra không còn phù hợp và việc triển khai soạn thảo Luật thanh niên đã tạm dừng. <BR > <BR > Năm 1993, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VII) đã ban hành Nghị quyết về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã mang lại sức sống mới cho phong trào thanh niên và hoạt động Đoàn. Hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” do Đoàn phát động từ giữa năm 1993 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được đông đảo đoàn viên, thanh niên sôi nổi hưởng ứng. Cùng với những thắng lợi to lớn của gần mười năm đổi mới, tình hình thanh niên và phong trào thanh niên nước ta có nhiều chuyển động tích cực. Trong bối cảnh đó, vào cuối năm 1994, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã kiến nghị với Quốc hội để tiếp tục nghiên cứu, xây dựng Luật Thanh niên. Năm 1995, dự án Luật thanh niên được bổ sung vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khoá IX và sau đó tiếp tục được đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khoá X. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục giao cho Trung ương Đoàn chủ trì, phối hợp với các bô, ngành, đoàn thể có liên quan xây dựng dự án Luật Thanh niên và thành lập Ban Soạn thảo Luật Thanh niên do đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn làm Trưởng ban soạn thảo. Để giúp việc cho Ban Soạn thảo Luật Thanh niên, Trung ương Đoàn đã thành lập Tổ Biên tập Luật Thanh niên bao gồm các chuyên gia có hiểu biết sâu sắc về pháp luật về thanh niên của một số bộ, ngành, đoàn thể và các cán bộ nghiên cứu của Trung ương Đoàn. Nhiệm vụ thường trực giúp việc cho Ban soạn thảo Luật Thanh niên được giao cho Viện nghiên cứu thanh niên thuộc Trung ương Đoàn. Năm 1998, Uỷ ban quốc gia về thanh niên được thành lập, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn kiêm nhiệm Chủ nhiệm Uỷ ban, bộ máy chuyên trách giúp việc cho Uỷ ban được bố trí từ biên chế của Trung ương Đoàn. Để phù hợp với một nhiệm vụ của Uỷ ban là phối hợp nghiên cứu, xây dựng, đề xuất về chính sách đối với thanh niên và tăng cường hiệu quả phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể trong việc soạn thảo Luật Thanh niên, nhiệm vụ thường trực giúp việc cho Ban soạn thảo Luật Thanh niên được giao cho Văn phòng Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam. <BR > <BR > Từ năm 1995, Trung ương Đoàn đã tiếp tục triển khai tích cực việc xây dựng dự án Luật Thanh niên. Các cuộc khảo sát về tình hình thanh niên và việc thực hiện chính sách thanh niên đã được tiến hành ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hàng trăm cuộc hội thảo khoa học lấy ý kiến của các chuyên gia luật pháp, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý, cán bộ Đoàn, Hội và các cuộc họp lấy ý kiến đóng góp của cán bộ, đoàn viên, thanh niên ở địa phương, cơ sở đã được tổ chức. Một số cuộc hội thảo khoa học còn thu hút được sự tham gia thảo luận của một số tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Ban Thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn các khoá đã có nhiều phiên họp thảo luận và cho ý kiến chỉ đạo việc xây dựng dự án Luật Thanh niên. Ban soạn thảo Luật thanh niên đã tổ chức nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng, các quy định của pháp luật, tham khảo các kết quả nghiên cứu và nội dung của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010. Đồng thời, Ban soạn thảo cũng đã tiến hành tham khảo các công ước quốc tế liên quan đến thanh niên và kinh nghiệm xây dựng pháp luật về thanh niên của một số nước trên thế giới để soạn thảo dự án Luật thanh niên. Quá trình soạn thảo dự án Luật có sự phối hợp chặt chẽ của Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, các bộ, ngành, đoàn thể, các cơ quan có liên quan và có sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia luật pháp, các nhà nghiên cứu, hoạt động xã hội, cán bộ làm công tác thanh niên.<BR > <BR > Tuy vậy, Luật Thanh niên là một luật đối tượng, nhiều vấn đề về nội dung của luật rất khó thể hiện. Thanh niên cũng là công dân, có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thiết kế những nội dung về quyền, nghĩa vụ của thanh niên phải làm sao không phải là việc nhắc lại các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định tại các văn bản pháp luật khác, nhưng phải thể hiện được trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, gia đình, xã hội, làm rõ những quyền, nghĩa vụ mang tính đặc thù của thanh niên và trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của thanh niên. <BR > <BR > Bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ 21, trên cơ sở các kết quả đã đạt được, việc xây dựng dự án Luật Thanh niên càng được đẩy mạnh về tiến độ và chú trọng nâng cao chất lượng soạn thảo. Cuối năm 2002, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) trong đó có dự án Luật thanh niên. Năm 2004, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, theo đó, dự án Luật thanh niên sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua trong năm 2005. Tháng 1 và 2/2005, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã tổ chức hai phiên làm việc tập thể xem xét, góp ý việc xây dựng dự án Luật Thanh niên và giao cho Ban soạn thảo luật tập trung nỗ lực nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung và hoàn thiện dự thảo Luật thanh niên. Cuối tháng 2/2005, sau khi xin ý kiến góp ý của Chính phủ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã thông qua dự án Luật Thanh niên (dự thảo thứ 18) và chính thức trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến. <BR > <BR > Ngày 31/3/2005, tại phiên họp thứ 27, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Thanh niên và đồng ý giao cho Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức có liên quan khẩn trương sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh dự án Luật Thanh niên để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7. Ngày 24/5/2005, đồng chí Đào Ngọc Dung, quyền Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn (khoá 8) đã trình bày dự án Luật Thanh niên tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI và đồng chí Trần Thị Tâm Đan, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật Thanh niên. Ngày 6/6/2005, tại kỳ họp này, các đại biểu Quốc hội đã phát biểu ý kiến đóng góp dự án Luật Thanh niên. Các ý kiến của đại biểu Quốc hội đã bày tỏ sự tán thành việc ban hành Luật Thanh niên, tán thành cơ bản dự án Luật Thanh niên và góp ý một số nội dung đề cần được bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện. <BR > <BR > Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan có liên quan nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện dự án Luật Thanh niên để trình Quốc hội xem xét thông qua. Ngày 26/10/2005, tại kỳ họp thứ 8, đại biểu Quốc hội đã nghe báo cáo tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình bày và thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Thanh niên. Các ý kiến phát biểu đều đồng ý cần thiết ban hành Luật Thanh niên và góp ý một số vấn đề như làm sao thể hiện được rõ hơn trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, xã hội, gia đình và bản thân, bổ sung một số nội dung về chính sách của nhà nước đối với thanh niên… Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua đối với 9 vấn đề còn hai loại ý kiến khác nhau và bỏ phiếu thông qua Luật Thanh niên với 75% tán thành. Ngày 9/12/2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Lệnh số 24/2005/L/CTN công bố Luật Thanh niên. Luật Thanh niên chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. <BR > <BR > <FONT color=#16599c > <B > IV. Nội dung chủ yếu của Luật <BR > <BR > </B > </FONT > <B > 4.1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật thanh niên<BR > <BR > </B > + Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, với tư cách là công dân, thanh niên có quyền và nghĩa vụ như mọi công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy Luật thanh niên không đưa ra quyền, nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ mà Hiến pháp, pháp luật đã quy định và để tránh trùng lắp nên chỉ đề cập những quyền và nghĩa vụ cơ bản và nhấn mạnh yếu tố đặc thù của thanh niên với định hướng đặt ra là: thanh niên là lớp người cần được bồi dưỡng, đào tạo. Việc phát huy vai trò thanh niên thông qua việc thanh niên thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân; thể hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thanh niên như thế nào nhằm phát huy cao vai trò của thanh niên.<BR > Đồng thời thanh niên là một chủ thể, một lớp người, mà quá trình trưởng thành, cống hiến của họ có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với gia đình, Nhà nước, xã hội và các tổ chức thanh niên. Do đó, Luật thanh niên vừa điều chỉnh các quyền, nghĩa vụ của thanh niên, vừa điều chỉnh trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên. <BR > Vì vậy, Luật thanh niên qui định quyền và nghĩa vụ thanh niên; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên; tổ chức thanh niên. Đồng thời được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân.<BR > <BR > <B > 4.2. Nội dung cơ bản của Dự án Luật Thanh niên.<BR > </B > Luật Thanh niên gồm có 6 chương với 36 điều.<BR > <BR > <B > Chương I: Những quy định chung</B > <BR > Chương I gồm có 8 điều, từ điều 1 đến điều 8, là những quy định những vấn đề chung nhất, mang tính nguyên tắc như: khái niệm thanh niên (quy định tại Điều 1); phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (quy định tại điều 2); về quyền và nghĩa vụ của thanh niên (quy định tại Điều 3)... đặc biệt Luật nêu lên vấn đề mang tính nguyên tắc về sự bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ đối với các đối tượng thanh niên “ thanh niên không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp đều được tôn trọng về quyền và nghĩa vụ” (quy định tại khoản 2, Điều 3); về vị trí, vai trò của thanh niên, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên, xã hội hoá công tác thanh niên (quy định tại Điều 4); về Quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, Hợp tác quốc tế về thanh niên (quy định từ Điều 5 đến Điều 7) và các hành vi bị nghiêm cấm đối với thanh niên (quy định tại điều 8).<BR > <BR > Về độ tuổi thanh niên: căn cứ từ sự phân tích về phát triển thể chất, tâm lý, sinh lý, sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ của thanh niên; vừa đảm bảo sự kế tiếp với tuổi trẻ em đã được quy định trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam và có tham khảo về quy định độ tuổi thanh niên của các nước trong khu vực và trên thế giới, <BR > <BR > Điều 1, Luật thanh niên qui định độ tuổi của thanh niên là từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.<BR > Về cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh niên: để phù hợp với chủ trương cải cách hành chính nên trong Luật không quy định về tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ quản lý công tác thanh niên. Việc quản lý nhà nước về công tác thanh niên thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng các bộ ngành và Chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp. Do đó, nếu thành lập một cơ quan ngang bộ để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thanh niên sẽ dẫn đến chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Hơn nữa, ở nước ta, bên cạnh các cơ quan Nhà nước còn có tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là nơi tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, đại diện chăm lo và bảo vệ lợi ích của thanh niên có trách nhiệm phát triển công tác thanh niên, làm lực lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và được quyền tham gia hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội. Vì vậy, hiện nay Điều 6, Luật thanh niên quy định về Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên nhằm tạo điều kiện cho Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam làm tốt chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên.<BR > <BR > Về các hành vi bị nghiêm cấm: Với tư cách là công dân, thanh niên không được thực hiện những hành vi đã bị nghiêm cấm đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như mọi công dân khác. Tuy nhiên, theo báo cáo của các cơ quan pháp luật, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên có xu hướng gia tăng, nhất là những tội phạm về ma tuý, mại dâm, gây rối trật tự công cộng… đặc biệt là tội đua xe trái phép, sử dụng thuốc lắc…, thực sự là vấn đề đáng lo ngại của toàn xã hội. Vì vậy, Điều 8, Luật thanh niên quy định về các hành vi bị nghiêm cấm mang tính đặc thù thường xảy ra đối với lứa tuổi thanh niên và nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân dụ dỗ , lôi kéo, ép buộc thanh niên thực hiện các hành vi này.<BR > <BR > <B > Chương II: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên.</B > <BR > Luật thanh niên nhằm tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên. ở chương này, căn cứ vào quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân để xác định quyền và nghĩa vụ thanh niên, đồng thời làm cơ sở pháp lý để định hướng cho thanh niên rèn luyện phấn đấu nâng cao trách nhiệm đối với bản thân mình, đối với dân tộc, đất nước thông qua việc tích cực thực hiện quyền và nghĩa vụ của thanh niên để vươn lên tự hoàn thiện mình, tích cực học tập, lao động lập thân, lập nghiệp. Quyền và nghĩa vụ thanh niên quy định tại chương này cũng là cơ sở để Nhà nước ban hành các chính sách, xác định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội nhằm tạo điều kiện cho việc đào tạo, phát huy thanh niên.<BR > <BR > Chương này gồm có 8 điều, từ điều 9 đến điều 16 quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của thanh niên trong học tập; lao động; bảo vệ Tổ quốc; hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên môi trường; hoạt động văn hoá, nghệ thuật, du lịch, vui chơi, giải trí; bảo vệ sức khoẻ, thể dục, thể thao; hôn nhân và gia đình; trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội.<BR > <B > <BR > Chương III. Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên </B > <BR > Những quy định ở chương này thể hiện những chính sách cơ bản của Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nhằm huy động sức mạnh của các chủ thể cùng chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên, tạo những điều kiện thuận lợi để thanh niên có thể phát huy hết khả năng của mình rèn luyện, phấn đấu, lập thân, lập nghiệp, góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Các chính sách hướng đến việc tăng cường khả năng lập thân, lập nghiệp, khả năng tự giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc của thanh niên trong nền kinh tế thị trường- định hướng XHCN. Chương này gồm có 11 điều, từ Điều 17 đến Điều 27.<BR > Từ Điều 17 đến Điều 23, là những quy định về trách nhiệm của Nhà nước, các chính sách của Nhà nước đối với thanh niên nói chung trong các lĩnh vực học tập và hoạt động khoa học, công nghệ, lao động, bảo vệ tổ quốc, hoạt động văn hoá nghệ thuật, vui chơi, giải trí, bảo vệ sức khoẻ và hoạt động thể dục, thể thao, hôn nhân và gia đình, tham gia quản lý nhà nước và xã hội; <BR > <BR > Đối với một số đối tượng thanh niên có tính đặc thù như những đối tượng thanh niên có yếu thế trong cơ hội phát triển (thanh niên khuyết tật, tàn tật, thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo) hoặc là có tính tiên tiến, tích cực, có khả năng cống hiến (thanh niên xung phong, thanh niên có tài năng), Luật đã có quy định thêm một số chính sách nhằm để hỗ trợ cho nhóm yếu thế và phát huy nhóm thanh niên tích cực, tạo cơ hội bình đẳng về phát triển cho mọi đối tượng thanh niên: Từ Điều 24 đến Điều 27, quy định chính sách cho một số đối tượng thanh niên, gồm thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên xung phong, thanh niên có tài năng, thanh niên khuyết tật, tàn tật, thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo.<BR > <BR > <B > Chương IV. Trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, bồi dưỡng thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi</B > <BR > Thanh niên từ đủ 16 đến 18 tuổi đã là thanh niên nhưng cũng là người chưa thành niên, là lớp người cần được chăm lo giáo dục, bồi dưỡng để phát triển hoàn thiện bản thân, trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, theo công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc mà nước ta đã ký kết và gia nhập năm 1990, thanh niên trong độ tuổi này vẫn là trẻ em. Vì vậy Luật thanh niên dành riêng một chương quy định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với lớp thanh niên này, đây là sự tiếp nối với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 năm 2004, tạo nên một hệ thống các chế định pháp lý để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tốt hơn cho trẻ em theo quy định của công ước quốc tế về quyền trẻ em và cũng là thể hiện sự nhất quán về thái độ tích cực của Nhà nước ta nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn những điều mà chúng ta đã cam kết với cộng đồng quốc tế. Các quy định trong chương này thể hiện sự ưu tiên trong việc chăm sóc, bảo vệ, bồi dưỡng, tạo những điều kiện thuận lợi cho thanh niên lứa tuổi này phát triển toàn diện trong quá trình hình thành nhân cách.<BR > <BR > Chương này gồm có 4 điều, từ Điều 28 đến Điều 31, quy định về trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên từ đủ 16 đến đủ 18 tuổi; việc áp dụng Công ước quốc tế về quyền trẻ em đối với thanh niên từ đủ 16 đến đủ 18 tuổi.<BR > <BR > <B > Chương V. Tổ chức thanh niên</B > <BR > Thanh niên là một lực lượng xã hội, nhưng là lực lượng có tổ chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thực tiễn, các tổ chức thanh niên có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng của thanh niên. Vì vậy Luật thanh niên đã có những quy định về tổ chức thanh niên; vị trí, vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - tổ chức chính trị xã hội của thanh niên và của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam - tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên. Còn vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của tổ chức thanh niên thì được thể hiện trong điều lệ của các tổ chức thanh niên chứ không đưa vào Luật này.<BR > <BR > Chương này gồm có 3 điều, từ Điều 32 đến Điều 34, quy định về khái niệm tổ chức thanh niên; vị trí, vai trò của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.<BR > <BR > <B > Chương VI. Điều khoản thi hành<BR > </B > Chương này gồm có 2 điều là Điều 35 và Điều 36, quy định về hiệu lực thi hành của Luật thanh niên và hướng dẫn thi hành Luật thanh niên.<BR > <BR > Điều 36 Luật thanh niên quy định: “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này”.<BR > <BR > Luật thanh niên sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Hiện nay, việc xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật thanh niên đang được tiến hành khẩn trương để kịp thời ban hành khi Luật có hiệu lực. Công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về Luật thanh niên tới đoàn viên, hội viên, thanh niên và trong toàn xã hội là việc rất cần thiết, cần được tiến hành kịp thời. Đoàn thanh niên cấp tỉnh, thành chủ động phối hợp với Sở Tư pháp và các báo, đài địa phương tổ chức phổ biến, giới thiệu Luật thanh niên dựa trên đề cương này, trong đó cần lưu ý trách nhiệm thực hiện quyền, nghĩa vụ thanh niên và trách nhiệm của Nhà nước xã hội trong việc chăm lo bồi dưỡng cho thanh niên để nâng cao hiểu biết của đoàn viên, hội viên, thanh niên và tạo khí thế thi đua sôi nổi, phấn khởi trong tháng thanh niên 2006 và kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đoàn. <BR > <BR > </FONT > </P > </html>