<!DOCTYPE html PUBLIC "-//W3C//DTD XHTML 1.0 Transitional//EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-transitional.dtd">
<html xmlns="http://www.w3.org/1999/xhtml">
<head>
<meta content="en-us" http-equiv="Content-Language" />
<meta content="text/html; charset=utf-8" http-equiv="Content-Type" />
<title>Sự phát triển nhận thức của Đảng</title>
<style type="text/css">
.style2 {
font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;
}
.style3 {
font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;
font-size: 10pt;
}
.style4 {
font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;
font-size: 10pt;
text-align: right;
}
.style5 {
text-align: right;
}
.style6 {
text-align: center;
}
.style7 {
font-family: Arial, Helvetica, sans-serif;
font-size: 10pt;
color: rgb(0, 0, 255);
}
</style>
</head>
<body>
<div class="style6">
<span id="ctl01_chCenterLeft_ctl03_lblHeadline" class="style7" style="font-weight: bold;">
Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay</span>
<span id="ctl01_chCenterLeft_ctl03_lblSource" class="text" style="font-weight: bold; font-style: italic;">
</span>
<span id="ctl01_chCenterLeft_ctl03_lblTeaser" class="text" style="font-weight: bold;">
</div>
<p class="style5"><span class="style3"><strong>GS,TS Nguyễn Phú Trọng</strong></span><br class="style3" />
<span class="style3"><em>Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội</em></span></p>
<p align="justify" class="style2">
<table style="width: 7%; float: left">
<tr>
<td><img alt="" height="148" src="test.jpg" width="250" /></td>
</tr>
</table>
<font size="2">Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã thông qua </font><em>
<font size="2">Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội </font></em><font size="2">(sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Bản
cương lĩnh đã phân tích nội dung, tính chất của thời đại, tổng kết quá trình
cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển những quan điểm cơ bản trước đó của
Đảng để nêu ra quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, chỉ ra mục tiêu và những định
hướng lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là văn kiện
quan trọng mang tầm định hướng chiến lược, là nền tảng tư tưởng lý luận và ngọn
cờ chiến đấu của Đảng ta, dân tộc ta trong giai đoạn mới.</font></p>
</span>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Sau gần 20 thực hiện Cương lĩnh,
với sự nỗ lực phấn đấu của toàn đảng, toàn dân và toàn quân, nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi hẳn bộ mặt và vị thế của
đất nước. Những thành tựu đó khẳng định giá trị to lớn và sức sống mãnh liệt của
</font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">, đồng
thời cho chúng ta thêm nhiều bài học quý để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng
tiến lên.</font></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Tuy nhiên, ngay từ thời điểm
ban hành </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">,
Đảng ta đã chỉ rõ: “Lúc này chúng ta chưa có đủ cơ sở để vẽ ra toàn bộ bức tranh
của xã hội tương lai một cách hoàn chỉnh. Nhưng… chúng ta có thể vạch ra những
nguyên tắc, phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta…
Sau này khi thực tiễn bộc lộ những vấn đề mới, qua tổng kết, Cương lĩnh sẽ không
ngừng được bổ sung và hoàn chỉnh từng bước” * .</font></p>
<p align="justify"><span class="style2"><font size="2">Thực tế, kể từ </font>
<em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2"> ra đời đến
nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc.
Nhiều vấn đề mới nảy sinh đã được Đảng ta nắm bắt và giải quyết có hiệu quả;
nhiều nội dung của </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">
đã được bổ sung, phát triển hoặc nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Từ nội dung tính
chất thời đại đến quá trình cách mạng, bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta;
từ đặc điểm của thời kỳ quá độ đến đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từ
mục tiêu, nhiệm vụ đến phương hướng, giải pháp để từng bước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,… ở những mức độ khác nhau đều có sự
bổ sung, phát triển về nhận thức. </font></span><br class="style3" />
<br class="style3" />
<span class="style3">Trong khuôn khổ của bài viết này, chỉ xin nêu tóm tắt một
số luận điểm và nội dung cốt lõi nhất.</span></p>
<p align="justify"><span class="style3"><strong>1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp</strong></span><br class="style3" />
<br class="style3" />
<span class="style3">Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, Đảng ta luôn khẳng định, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng
và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất
yếu của cách mạng Việt Nam. </span></p>
<p align="justify" class="style2"><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">,
sau khi phân tích bối cảnh của tình hình thế giới và trong nước, đã nhận định: “chủ
nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử thế giới đang
trải qua những bước quanh co; song, </font><em><font size="2">loài người cuối
cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch
sử”</font></em><font size="2"> **. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI,
mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, phe xã
hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng
hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” ***
.</p>
<p align="justify" class="style3">Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên
chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà Đảng ta luôn luôn trăn trở, suy
nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với
điều kiện, đặc điểm cụ thể của nước ta. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi
mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức
ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta; từng bước khắc phục được một số quan niệm đơn giản,
ấu trĩ trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với
nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ
phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất
trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ
những thành tựu, giá trị mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ
nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xóa bỏ sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, xóa
bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước
tư sản,…</p>
<p align="justify" class="style2"><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">
đã đưa ra những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là một bước tiến lớn trong tư
duy lý luận của Đảng ta, vừa quán triệt tinh thần cơ bản của học thuyết
Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vừa thể hiện sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam trong thời kỳ mới. </font></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Trong quá trình thực hiện
</font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">, Đảng
ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từng bước hoàn chỉnh thêm
nhận thức về vấn đề này. Cho đến nay, mặc dù còn một số vấn đề cần tiếp tục đi
sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta có thể khái quát, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Để thực hiện được mục tiêu đó, nước ta phải:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội;
bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.</p>
<p align="justify" class="style3">Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng
nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô
cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất
thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng đất nước ta, cho nên
lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự
đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. </p>
<p align="justify" class="style3">Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua
chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta xây dựng, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà
nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên,
việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc.</p>
<p align="justify" class="style3"><strong>2. Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa</strong></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Đưa ra quan niệm phát triển
</font><em><font size="2">kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa</font></em><font size="2">
là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận
quan trọng qua 20 năm thực hiện </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">,
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế
giới. </font></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Như chúng ta đã biết, sau một
thời gian tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ Đại hội VI, Đảng ta đã dứt
khoát từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm
1991</font></em><font size="2"> khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Đại hội VIII (tháng 6-1996) đưa ra quan niệm
mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: “Sản xuất hàng hóa
không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng vào thời điểm đó, chúng ta
mới chỉ nói: “Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế
thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa
xã hội chứ không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường có những
mặt mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội… Đi vào kinh tế thị trường, phải
kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó”
****. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Phải đến Đại hội IX (tháng 4
năm 2001) khái niệm “</font><em><font size="2">kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa</font></em><font size="2">” mới chính thức được nêu trong văn kiện
của Đảng”, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.</font></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là </font><em><font size="2">một kiểu kinh tế thị trường mới</font></em><font size="2">
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo những quy luật của cơ chế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện
trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa (vì mục đích của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã
hội), và cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì chúng ta còn
đang trong thời kỳ quá độ).</font></p>
<p align="justify" class="style3">Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và mở rộng; kinh tế tư nhân là một trong những động lực
của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần
ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Quan hệ phân phối bảo đảm
công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Một đặc trưng cơ bản, một thuộc
tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước
ta là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách
xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
</font><em><font size="2">ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt
quá trình phát triển. </font></em><font size="2">Phát triển xã hội trên nguyên
tắc tiến bộ và công bằng đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu
quả cao và bền vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngược lại, cũng không thể có một nền kinh tế
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững nếu trong xã hội không có sự công
bằng nhất định, đa số dân chúng sống nghèo khổ, thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về
thể chất, và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói,
bị đẩy ra ngoài lề xã hội.</font></p>
<p align="justify" class="style3">Nói giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước,
từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển có nghĩa là: không chờ đến
khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng
trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới
mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài;
khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc
những người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ. Điều này vừa
thể hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh, bền vững trong thời đại ngày
nay, vừa nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta. Nếu không giải quyết tốt vấn
đề này thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là không hơn gì
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, càng không thể nói đến tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội.</p>
<p align="justify" class="style3"><strong>3. Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội</strong></p>
<p align="justify" class="style3">Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, bước phát triển
tư duy lý luận của Đảng ta. </p>
<p align="justify" class="style3">Từ nhiệm kỳ Đại hội VIII đến nay, trong nhiều
nghị quyết của Đảng đã xác định phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và
khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã
hội; đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là đầu tư cho phát
triển. Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại, là
một tiêu chí và nội dung của sự phát triển bền vững, là nhân tố bảo đảm sức khỏe
và chất lượng cuộc sống của nhân dân.</p>
<p align="justify" class="style3">Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng;
phải làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, trong mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người. “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như Bác Hồ đã dạy.</p>
<p align="justify" class="style3">Một luận điểm rất quan trọng thể hiện nhận
thức mới của Đảng ta là đã xác định sự gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa – nền tảng tinh
thần của xã hội, coi đó là “ba chân kiềng” bảo đảm cho sự phát triển bền vững
của đất nước. </p>
<p align="justify" class="style3">Để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của
xã hội phải làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, xây dựng một xã hội văn minh lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày
càng cao; phê phán những cái lỗi thời, thấp kém; đấu tranh chống những tư tưởng
và hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng,
mất gốc, sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý; bảo vệ nền văn hóa dân tộc trước
sự xâm lăng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, cần thực hiện xã hội hóa các hoạt
động văn hóa.</p>
<p align="justify" class="style3">Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đề cao quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Tất cả phải vì con người, chăm lo cho hạnh phúc của con người; phát huy nhân tố
con người và phát triển nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình
thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và tổ ấm của mỗi
người.</p>
<p align="justify" class="style3"><strong>4. Giữ vững môi trường hòa bình, độc
lập tự chủ, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.</strong></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Qua những năm thực hiện </font>
<em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">, chúng ta ngày
càng nhận thức rõ rằng, một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta là
phải ra sức củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và
khu vực; chuyển từ cách nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang
cách nhìn toàn diện hơn; coi thế giới như môi trường tồn tại và phát triển của
Việt Nam. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh
vực quốc tế và đối ngoại là quan điểm “thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ quốc tế”, lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao của hội
nhập. Trên cơ sở đó đã từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và
tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ
lực.</p>
<p align="justify" class="style3">Trước xu thế khách quan toàn cầu hóa kinh tế,
chúng ta chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. </p>
<p align="justify" class="style3">Đảng ta cũng nhận rõ khả năng vừa hợp tác, vừa
đấu tranh trong tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau; đổi mới nhận thức trên vấn đề “địch - ta”, “đối tượng - đối tác” theo tinh
thần “thêm bạn bớt thù”, khẳng định “những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ
quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi
với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành
động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đều là đối tượng đấu tranh”. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Chúng ta đã nhiều lần và từng
bước tuyên bố: “</font><em><font size="2">Việt Nam muốn là bạn”, “sẵn sàng là
bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy” </font></em><font size="2">của các nước trong
cộng đồng quốc tế; “là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các tổ chức
quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển.</font></p>
<p align="justify" class="style3">Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
đất nước, Đảng ta vẫn luôn luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta đã từng
bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng
- an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm an ninh quốc gia: an
ninh quốc gia không chỉ là an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh
văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội,… </p>
<p align="justify" class="style3">Khái niệm bảo vệ Tổ quốc cũng được xác định
đầy đủ hơn: bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo,
vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả
cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, bảo
vệ sự nghiệp đổi mới… </p>
<p align="justify" class="style3">Đã nhận thức rõ hơn các nguy cơ đối với an
ninh quốc gia, các nhân tố có khả năng gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá
hoại an ninh quốc gia, nhất là những nhân tố “phi truyền thống”. Chúng ta đã
bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong
điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo
vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân; khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc
là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân với nền tảng là “thế trận
lòng dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực
lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an
ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh; quốc phòng -
an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại. </p>
<p align="justify" class="style3">Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân
dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Kiên quyết làm thất bại âm mưu và thủ đoạn
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính
trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ
quan, đơn vị.</p>
<p align="justify" class="style3"><strong>5. Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.</strong></p>
<p align="justify" class="style3">Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Trong những năm đổi mới, chúng
ta ngày càng nhận rõ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Khẳng định phải xây dựng </font><em><font size="2">Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa</font></em><font size="2"> thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Mọi đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội, khắc
phục biểu hiện dân chủ hình thức. Nhà nước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế
về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết.</font></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Đưa ra chủ trương xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhận thức mới của Đảng ta vào những năm
90 so với </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">.
Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng phải thực hiện nhà
nước pháp quyền. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về
bản chất với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản,
về thực chất, là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn
pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. </p>
<p align="justify" class="style3">Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp
luật và các công cụ khác theo quy định của pháp luật. Thông qua thực thi pháp
luật, Nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.</p>
<p align="justify" class="style3">Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và
tư pháp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thông suốt, thống nhất. Đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là thiết chế
phục vụ nhân dân; hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, việc gì có lợi
cho dân, phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân, phải hết sức tránh. Có cơ chế
giám sát quyền lực nhà nước.</p>
<p align="justify" class="style2"><em><font size="2">“Đoàn kết dân tộc”, “đại
đoàn kết dân tộc”, “đại đoàn kết toàn dân tộc”</font></em><font size="2"> ngày
càng được nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò, là nguồn sức mạnh và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách
mạng. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
các dân tộc, các tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi
lứa tuổi, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc
lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm
điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung
của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp,
thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai.</p>
<p align="justify"><span class="style3">Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau
hoặc không theo tôn giáo, tạo điều kiện làm tròn trách nhiệm công dân, sống “tốt
đời đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo.</span><br class="style3" />
<br class="style3" />
<span class="style3">Đồng bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và
là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam; khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để đồng bào nâng cao lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần tự
trọng, tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, tôn
trọng pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương đất nước và góp phần tăng cường
đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước.</span></p>
<p align="justify" class="style3">Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội là các tổ chức đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia giám sát và phản biện xã hội đối với
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng, bảo đảm
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự trường tồn và
phát triển của dân tộc.</p>
<p align="justify" class="style3"><strong>6. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc.</strong></p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Một thời gian dài và cả trong
</font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2"> Đảng ta
đã xác định “</font><em><font size="2">Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân</font></em><font size="2">, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. </font></p>
<p align="justify" class="style3">Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng
ta nêu cao tư tưởng đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khi Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo cả
dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình; và trên
thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai
cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc, cho nên
cần diễn đạt bản chất của Đảng thế nào cho phù hợp hơn. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Đại hội X của Đảng đã quán
triệt sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định: “</font><em><font size="2">Đảng
cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. </font></em></p>
<p align="justify" class="style3">Cùng với việc xác định Đảng ta là đảng cầm
quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới rất quan trọng về nhận thức của
Đảng trong 20 năm qua. Nó vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân của Đảng
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát
triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam, và đáp
ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt như vậy hoàn toàn không
phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”
mà chính là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc
hơn, nhuần nhuyễn hơn. Nó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với giai
cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải
học tập, kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tăng cường
đoàn kết, tập hợp nhân dân phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc.</p>
<p align="justify" class="style3">Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng -, Đảng
ta luôn luôn kiên định, kiên trì, đồng thời yêu cầu phải vận dụng sáng tạo, có
bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn, góp phần làm phong phú và ngày
càng hoàn thiện hơn. Chúng ta cũng đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc giá trị to lớn
và nội dung toàn diện của tư tưởng Hồ Chí Minh. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Tại Đại hội IX, Đảng ta đã tổng
kết: “</font><em><font size="2">Tư tưởng Hồ Chí Minh</font></em><font size="2">
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta” *****.</font></p>
<p align="justify" class="style2"><em><font size="2">Về công tác xây dựng Đảng</font></em><font size="2">,
đã bổ sung, phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý luận về vai trò lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền,
mở cửa hội nhập quốc tế; làm rõ hơn trách nhiệm của đảng cầm quyền trong việc
nghiên cứu, tìm tòi mô hình và con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội phù
hợp với quy luật khách quan. Đã nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của công
tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Từ đó đặt ra yêu cầu Đảng
phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới
của Đảng; tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đấu tranh
chống sự suy thoái, biến chất, tham nhũng, hư hỏng. Đổi mới, kiện toàn hệ thống
tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên; đổi mới đồng bộ công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối công tác; gắn bó mật thiết với nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đặc biệt đề phòng nguy cơ sai lầm về đường
lối và thoái hóa, quan liêu, xa rời quần chúng.</font></p>
<p align="justify"><span class="style3"><em>Đảng viên làm kinh tế tư nhân</em></span>
<span class="style3">là một vấn đề cụ thể nhưng rất quan trọng, liên quan đến
quan điểm, đường lối cơ bản của Đảng, được đặt ra từ nhiều năm, cho nhiều Đại
hội. Qua một quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đến Đại hội X,
Đảng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân) với điều kiện phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban chấp
hành Trung ương. </span></p>
<p align="justify" class="style3">Chúng ta nhận thức rằng, trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, đất nước còn nghèo, phải tập trung phát triển sức sản xuất,
làm ra nhiều của cải cho xã hội. Đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo thì cũng
cần khuyến khích đảng viên làm kinh tế bằng nhiều hình thức ở nhiều loại hình
sản xuất, kinh doanh, vừa nâng cao đời sống cho bản thân và gia đình vừa góp
phần làm giàu cho xã hội. </p>
<p align="justify" class="style2"><font size="2">Tóm lại, trong những năm tiến
hành công cuộc đổi mới, thực hiện </font><em><font size="2">Cương lĩnh năm 1991</font></em><font size="2">,
nhận thức của Đảng ta ngày càng được bổ sung, phát triển trên nhiều vấn đề cơ
bản và quan trọng, góp phần từng bước làm sáng tỏ và hoàn thiện đường lối đổi
mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây
cũng là cơ sở rất quan trọng để Đại hội XI sắp tới xem xét, quyết định việc bổ
sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991./.</font></p>
<p align="justify" class="style3">* Bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa VI
(tháng 8-1990); Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007,
t.50, tr.178.</p>
<p align="justify" class="style3">** Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.8.</p>
<p align="justify" class="style3">*** Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83.</p>
<p align="justify" class="style3">**** Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.72.</p>
<p align="justify" class="style3">***** Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.82-83.</p>
<p class="style4"><em><strong>Theo SGGPO</strong></em></p>
</body>
</html>