<html>
<head>
<meta http-equiv="Content-Language" content="en-us">
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252">
<title>Diễn đàn</title>
</head>
<body>
<p align="justify"><b><font face="Arial" size="2">Từ Lý Tự Trọng đến những trang sử Đoàn - Kỳ 2:</font></b></p>
<p align="center"><b><font face="Arial" size="2" color="#0000FF">Di sản người
anh hùng trên đất Thái</font></b></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Đoàn làm phim chúng tôi đi lại
con đường từ VN, băng rừng Lào, vượt sông Mekong để đến với Bản Mạy, Nakhon
Phanom, nơi sinh thành của anh hùng Lý Tự Trọng.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial">
<a href="http://thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/webtd/vn/default.aspx?cat_id=665&news_id=12841">
<font size="2">>></font><span class="Apple-converted-space"><font size="2"> </font></span><font size="2">Kỳ
1:<span class="Apple-converted-space"> </span>Chân dung người tiếp lửa</font></a></font></p>
<table class="tLegend" cellspacing="2" cellpadding="0" width="40" align="center" border="0" style="font-size: 12px; color: rgb(54, 54, 54); font-family: Arial; border-collapse: separate; " id="table1">
<tr>
<td>
<p align="justify"><font size="2">
<img class="lImage" onclick="return showImage(this.src)" hspace="0" src="http://phienbancu.tuoitre.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=484947" border="1" hyperlink style="text-decoration: none; "></td>
</tr>
<tr>
<td>
<p align="center"><font color="#808080"><i>Thủ tướng Phạm Văn Đồng bắt tay ông Lê Hữu Đạt, bố của Lý Tự Trọng, trong một
lần gặp mặt tại Hà Nội năm 1977 - Ảnh: V.SỰ chụp lại từ tư liệu</i></font></font><i></i></td>
</tr>
</table>
<p align="justify"><b><font face="Arial" size="2">Bản Mạy của miền quá khứ</font></b></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cậu bé Lý Tự Trọng (tên thật là
Lê Văn Trọng) của năm 1914, chào đời trên đất làng Bản Mạy, tỉnh Nakhon Phanom,
Thái Lan, trong cuộc sống đầy bươn bả và bất trắc của người mẹ Nguyễn Thị Sờm và
cha Lê Hữu Đạt.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Làng Bản Mạy, trong ký ức của em
trai Lý Tự Trọng, ông Lê Văn Đại: “Những Việt kiều ở ven thị xã làm ăn bấp bênh,
họ đi vào hồ Noỏng - Nhạt tìm đất khai hoang làm ruộng, bám trụ bằng nghề nông
sinh sống lâu dài. Điều kiện đất đai thiên nhiên thuận lợi của vùng hồ Noỏng -
Nhạt giúp họ ổn định cuộc sống. Để đảm bảo an toàn cho người và gia súc, những
hộ dân cùng nhau lập một trại cày tập thể để giúp nhau khai khẩn đất làm ruộng
vườn”.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Làng Bản Mạy cách thị xã Nakhon
Phanom vài cây số. Những ngôi nhà sàn kiểu Thái lọt thỏm trong những khu vườn
yên tĩnh và tinh tươm mùi hoa cỏ mới. Thỉnh thoảng, tiếng những người đứng trên
nhà sàn cao nói xuống với người phía dưới vang lên là tiếng Hà Tĩnh, Nghệ An.
Chúng tôi chào bằng tiếng Việt, những gương mặt nông dân già nua mỉm cười đáp
lời hồ hởi: “Từ VN qua bao giờ thế?”. Đã cả trăm năm trôi qua, làng Bản Mạy vẫn
tiếng Việt, cuộc đời Việt như thế.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Trong câu chuyện xoay quanh vùng
đất đã sinh ra người anh hùng rất trẻ như Lý Tự Trọng, những người già trong
làng bảo chúng tôi hãy đến viếng nghĩa trang người Việt. Ở đó, nơi những người
cũ an nghỉ, người ta vẫn có thể tường tận chỉ khách lạ đến thắp nhang cho ngôi
mộ của ông bà Cựu Tuấn. Hai ngôi mộ xây cùng kiểu giản dị, không hình ảnh, chỉ
những từ đơn giản: “Ông Cựu Tuấn”, “Bà Cựu Tuấn”.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Hai con người đã trở thành ký ức
đó ngay từ những ngày xa xưa đã gửi gắm cả bốn người con của mình: Ngô Chính
Quốc, Ngô Hậu Đức, Ngô Trí Thông và Lê Văn Trọng (tức Lý Tự Trọng) cho con đường
học tập để đấu tranh vì tương lai đất nước. Trong tác phẩm Lý Tự Trọng - sống
mãi tên anh (Văn Tùng, NXB Thanh Niên, 2009), nhà sử học Văn Tùng đã viết về hai
con người trong ký ức làng Bản Mạy như sau: Ông Cựu Tuấn vẫn luôn cho rằng mình
là “Lý trưởng của vua nước Nam chứ không phải là tay sai của giặc ngoại bang”.
Sinh thời ông mang theo tâm thức của cha mình, một người theo vua Hàm Nghi nổi
lên đánh Pháp tại kinh thành Huế từ mùa hè 1885, không bao giờ quên rằng vua
nước mình bị Pháp bắt, dân nước mình bị xâm lăng. Cái chết của người cha trong
tay giặc Pháp trở thành ngọn lửa ghìm xuống trong lòng ông, để rồi bùng lên lại
khi gặp người đồng chí hướng Lê Hữu Đạt - cha đẻ của Lý Tự Trọng sau này.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Ông Cựu Tuấn đã nhận nuôi cậu bé
Lê Văn Trọng từ khi cậu bé tròn 3 tuổi, đỡ đần cho cha mẹ Trọng trong những ngày
quá nghèo khó và nguy nan khi vừa phải nuôi con, vừa tham gia đấu tranh cách
mạng. Ngọn mầm kiên cường đầu tiên của Đoàn Thanh niên cộng sản sau này được
sinh ra bởi hai cha mẹ đầy nhiệt huyết cách mạng, được nuôi lớn bởi người cha
nuôi đã gìn giữ và gói ghém quá lâu những tình yêu quê hương trong ký ức về
người cha, giặc Pháp và cả sự hoài nhớ quê hương...</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Làng Bản Mạy đã đi qua cả trăm
năm. Những ngôi mộ trong nghĩa trang làng cứ tiếp nối xuất hiện, thế hệ mới đến,
thế hệ cũ ra đi. Ở đâu trong vùng an nghỉ ấy người khách lạ cũng có thể bắt gặp
những câu viết bằng tiếng Việt rành mạch: “Yên giấc ngàn thu nơi hải ngoại/ Thỏa
lòng mơ ước chốn quê hương”, hay như “Dạy con đạo đức đã thành công/ Tưởng nhớ
tình quê an giấc mộng” trên mộ. Sự đồng vọng từ những con người yêu nước đến sắt
son và quay quắt như ông Đạt, bà Sờm hay ông bà Cựu Tuấn đã in vết trên tất cả
những vùng tinh thần của những người Việt xứ này. Dường như phận người xa xứ
càng long đong bao nhiêu thì lòng hoài nhớ và kiên trì hướng về đất nước càng
nồng cháy như vậy...</font></p>
<p align="justify"><b><font face="Arial" size="2">Di sản anh hùng</font></b></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Buổi sáng cuối tuần ở nhà hữu
nghị Thái Lan - VN đặt lọt thỏm giữa Bản Mạy, một lớp học tiếng Việt với những
em học trò người Việt tập trung đến với những bài tập đọc. Cô giáo dạy các em
thêm tiếng Việt ngoài giờ học chính của chương trình tiểu học Thái Lan. Nhiều em
từ sớm đã làm quen với tiếng Thái nên không rành tiếng Việt. Lớp học là nơi được
gầy dựng tự nguyện từ những phụ nữ biết chữ, yêu nghề giáo trong làng. Thời gian
học chỉ ngắn và ít buổi trong tuần, nhưng nhờ thế các em phần nào không quên cái
chữ của người quê Việt.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Cô giáo Vũ Thị Thư (65 tuổi) bế
đứa cháu ngoại đi lại nhìn mấy đứa trẻ học với cô giáo mới ở làng. Bà Thư nhớ
lại: “Ngày xưa tôi làm cô giáo ở Bản Mạy, cho các em đi học khổ lắm. Ví dụ hai
nhà thông với nhau thì tôi gom 3-4 em lại học chữ Việt mình. Các em đi học phải
giấu sách vở vào bụng. Người ta đàn áp cách mạng, không cho người Việt mình tụ
tập đi học đông”. Lớp của cô giáo Thư ngày xưa không có phòng và sân khang trang
như bây giờ. Đó là những căn phòng kín trên nhà sàn, nhìn thấy được người đi
ngoài đường bên dưới, là những buổi cô dạy một lần cả mấy lớp, mấy trình độ khác
nhau. Mấy chục năm trước đã là như thế, người Việt ở xứ người nuôi tình yêu nước
bằng cái chữ, lời nói không thể nào mai một.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Câu chuyện cô Thư kể có thể nhắc
người ở Bản Mạy về cả cái thời của những tên tuổi như thầy giáo Đặng Thúc Hứa,
cụ Tú Ngọ, ông cố Khôi... Họ đã vượt qua tất cả những ngăn trở để soạn giáo
trình tiểu học, soạn những bài giảng thơ Phan Bội Châu, tổ chức những lò võ ngay
ở trại cày để cả trẻ em và thanh niên trong Bản Mạy chăm chỉ luyện tập, nuôi
dưỡng tinh thần hướng về Tổ quốc. Anh Lý Tự Trọng hồi xưa đã trốn đi xem học võ
và nghe chuyện kể đánh Tây của những người già say mê kể.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Anh Nguyễn Văn Minh, lý trưởng
quản lý 100 hộ dân với hơn 600 người của Bản Mạy bây giờ, kể lại rành mạch:
“Ngày xưa tụi tôi còn bé, cứ ngồi trên nhà sàn thế này bày trò chơi này nọ rồi
canh lính Thái đi qua. Cha mẹ, cô chú trong làng có khi đang ngồi ở phòng trong
họp bàn công việc. Mỗi nhà chúng tôi hồi ấy đóng góp 300 baht mỗi tháng để nuôi
một chiến sĩ cách mạng”. Anh Minh kể ở làng ai cũng tự nguyện làm vậy.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">Lâu lắm rồi, Bản Mạy tiếng Việt
vẫn ê a vang lên trong ngôi trường làng hữu nghị. Câu chuyện về anh Trọng trẻ
tuổi anh hùng vẫn sáng lên trong đôi mắt người làng. Ấy là câu chuyện về một
người cha và người mẹ phải bỏ Thạch Hà, Hà Tĩnh, cay đắng lê bước trên những núi
đồi cách trở thời loạn ly. Tài sản mà họ mang theo là một tình yêu quê cha đất
tổ, là một nỗi đau của quốc gia bị giày xéo dưới gót quân thù. Bản Mạy đã hình
thành nên mầm mống ngọn lửa trong tâm hồn người trai trẻ như anh Trọng...</font></p>
<p align="right"><b><font face="Arial" size="2">VIỄN SỰ - LAN PHƯƠNG</font></b></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">__________</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">
<em style="text-decoration: none; font-weight: 700">“Đối với chúng tôi, chỉ có
một con đường cách mạng, đó là nổi dậy” - Câu nói nổi tiếng này được tìm thấy
trong chính bản án bằng tiếng Pháp khi xét xử vụ án của Lý Tự Trọng. Các nhà sử
học gọi đó là “giây phút lóe sáng anh hùng”.</em></font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2">
<em style="text-decoration: none; "><b>Kỳ tới: <span class="Apple-converted-space"> </span></b><strong>Phút
bừng sáng</strong></em></font></p>
<p align="right"><font face="Arial" size="2"><b><i>Theo TTO</i></b></font></p>
</body>
</html>