<html>
<head>
<meta http-equiv="Content-Language" content="en-us">
<meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252">
<title>Kỷ niệm 33 năm ngày giải phóng h</title>
</head>
<body>
<span id="PageContent_News_NewsDetail">
<p class="style3"><font face="Arial" size="2"><strong>Kỷ niệm 33 năm ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2008)</strong></font></p>
<p class="style1" align="center"><font face="Arial" size="2" color="#0000FF">
<strong>Những chặng đường thắng lợi vẻ vang (P2)</strong></font></p>
</span>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2"><strong><font color="#008000">Nắm
chắc thời cơ, quân đội thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính Trị giải
phóng hoàn toàn miền Nam</font></strong><font color="#008000"><br>
</font><br>
Sau hội nghị cấp cao toàn quân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết hội nghị lần thứ
21 Ban chấp hành Trung Ương và Nghị quyết của Đảng ủy quân sự Trung ương; Bộ
tổng Tư lệnh đã nghiên cứu, xúc tiến kế hoạch tác chiến chiến lược, kế hoạch xây
dựng và huấn luyện các binh đoàn chủ lực và các binh chủng kỹ thuật, kế hoạch
bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật cho toàn quân. Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu xây
dựng kế hoạch chiến lược “phương hướng tác chiến 1973 – 1975”.<br>
<br>
Ngày 30 tháng 9 năm 1974 tại Hà Nội, Bộ Chính Trị họp bàn nhiệm vụ quân sự 2 năm
1975 – 1976, Bộ Chính Trị nhận định: Mỹ đã rút quân ra thì việc quay lại không
phải dễ. Dù Mỹ có can thiệp trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không
xoay chuyển được tình thế. Đây là thời cơ thuận lợi để quân và dân ta mở cuộc
tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến
bước cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn,
đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả
nước, thống nhất nước nhà.<br>
<br>
Nhận định tình hình cuộc chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối, quân địch còn
đông nhưng bị căng kéo, kìm giữ khắp nơi, cho phép ta có thể đẩy mạnh hơn nữa
quy mô và cường độ tiến công quân địch. Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh miền
Nam quyết định sử dụng Binh đoàn Cửu Long mở chiến dịch ở khu vực đường 14 Phước
Long tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch và mở rộng tuyến hành lang chiến lược,
tạo điều kiện phát triển lực lượng ta xuống vùng trung tuyến hành lang chiến
lược, tạo điều kiện phát triển lực lượng ta xuống vùng trung tuyến.<br>
<br>
Ngày 14/12/1974, Bộ đội ta tiến công chi khu quân sự Bù Đăng, sau 5 ngày đêm
chiến đấu quân ta đã tiêu diệt chi khu Bù Đăng, diệt và bắt 2.000 tên địch, giải
phóng một khu vực dài hơn 100km và hơn 14.000 dân. Ngày 26/12 ta tiến công tiêu
diệt chi khu Bù Đốp và tiến công chi khu Đồng Xoài, thị xã Phước Long bị cô lập.
Ngày 31/12 Binh đoàn Cửu Long tiến công thị xã Phước Long, đến ngày 6/1/1975 ta
giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Quân ngụy không dám và không còn đủ sức để
chiếm lại Phước Long. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam và cuộc kháng
chiến chống Mỹ, ta đã giải phóng hoàn toàn một tỉnh gần Sài Gòn, đầu não của
chính quyền ngụy Mỹ.<br>
<br>
Đây là một thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, là đòn đánh “trinh sát chiến lược”
góp phần củng cố quyết tâm của Bộ Chính Trị. Tin chiến thắng Phước Long đã làm
nức lòng quân và dân cả nước. Ngày 7/1/1975, khi kết luận hội nghị Bộ Chính Trị,
đồng chí Bí Thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn nhấn mạnh vấn đề
nắm vững thời cơ chiến lược, hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, khẩn trương điều
động lực lượng vật chất đảm bảo cho các lực lượng vũ trang đánh mạnh và nhanh
nhất, thắng gọn và triệt để ở Sài Gòn.<br>
<br>
Đất nước bước vào một mùa xuân mới, cùng với toàn Đảng, toàn dân, quân đội ta đã
chuẩn bị, nâng cao trình độ chiến đấu, sẵn sàng bước vào những chiến dịch quy mô
lớn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2"><strong><font color="#008000">
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 đến 3/4/1975)</font></strong><font color="#008000"><br>
</font><br>
Bước vào mùa xuân 1975, ta chọn Nam Tây Nguyên làm hướng đột phá chiến lược cho
cuộc tổng tiến công, mở đầu là trận Buôn Ma Thuột. Lực lượng tham gia chiến dịch
gồm 5 sư đoàn, 4 trung đoàn bộ binh, 2 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn pháo
xạ và 2 tiểu đoàn đặc công, 2 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn thông tin và
các đơn vị vận tải: sư đoàn Bộ binh Sao Vàng (Quân khu 5) tác chiến phối hợp
trên đường 19.<br>
<br>
Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3 năm
1975, quân ta tiến công giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận theo chốt
quyết định của chiến dịch, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn tình
thế phòng thủ của địch ở chiến trường Tây Nguyên, mở đầu cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Mùa Xuân 1975.<br>
<br>
Từ ngày 14 đến 18/3/1975, quân ta đánh trận theo chốt thứ hai, đập tan phản kích
của Quân đoàn 2 ngụy, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy địch ở Tây Nguyên
vào thế tam vỡ.<br>
<br>
Do tình thế nguy khốn, ngày 14/3, Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng tham mưu ngụy ra
lệnh cho quân ngụy rút khỏi Tây Nguyên để bảo toàn lực lượng.<br>
<br>
Trước sự tấn công như vũ bão của ta, cuộc rút lui của địch trở thành cuộc tháo
chạy hỗn loạn. Từ ngày 17 đến 24/3, quân ta đánh trận then chốt thứ ba của chiến
dịch, truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên đường số 7; giải
phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên.<br>
<br>
Kết quả ta đã tiêu diệt sư đoàn 23, lữ đoàn 3, lữ đoàn thiết giáp 2, trung đoàn
40, 8 liên đoàn biệt động quân và các tiểu đoàn bảo an, 12 vạn tên địch bị tiêu
diệt, tan rã và bắt sống. Ta đã giải phóng toàn bộ Tây Nguyên rộng lớn với 60
vạn dân.<br>
<br>
Qua chiến dịch này, quân đội ta đã có bước trưởng thành mới về trình độ tổ chức
chỉ huy và thực hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, về
nghệ thuật đánh chiếm thành phố, đánh địch phản kích lớn bằng đổ bộ đường không
và truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên địa hình rừng núi.<br>
<br>
Chiến dịch Tây Nguyên còn nổi bật ở nghệ thuật phát triển tiến công. Nắm thời cơ
địch rút chạy, kiên quyết truy kích tiêu diệt địch, ngay từ trong chiến dịch mở
màn, ta đã đánh cho quân ngụy một đòn choáng váng, quân địch bị tổn thất lớn
chưa từng có, làm rung chuyển chiến lược của chúng và mở ra bước ngoặt quyết
định cho cuộc chiến tranh cách mạng ở Việt Nam.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2"><strong><font color="#008000">
Chiến dịch Huế – Đà Nẵng ( từ 21/3 đến 29/3/1975)</font></strong><font color="#008000"><br>
</font><br>
Sau khi mất Tây Nguyên, địch hoang mang co cụm phòng thủ chiến lược, Ở phía Bắc
chúng rút bỏ thị xã Quảng Trị để tập trung bảo vệ Huế. Lực lượng địch gồm Quân
đoàn ngụy 1, sư đoàn lính thủy đánh bộ, lữ đoàn thiết giáp, liên đoàn 1 biệt
động quân và 20 tiểu đoàn bảo an.<br>
<br>
Nắm thời cơ chiến lược, ta nhanh chóng giải phóng Quảng Trị và quyết định mở màn
chiến dịch giải phóng Huế. Lực lượng ta gồm binh đoàn Hương Giang và sư đoàn 2.,
sư đoàn 52, các trung đoàn 4, 6, 271, 46.<br>
<br>
Từ ngày 21 đến 23 tháng 3, các đơn vị của ta bỏ qua các mục tiêu thứ yếu, từ ba
hướng Bắc, Tây, Nam tiến xuống chia cắt, bao vây Huế, tiêu diệt một số cứ điểm
phòng ngự của địch. Trước khả năng bị bao vây tiêu diệt, địch bỏ thành phố Huế
rút chạy ra cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Ta phát hiện được âm mưu của địch,
nhanh chóng phát triển lực lượng bộ binh và pháo binh tiêu diệt và làm tan rã sư
đoàn bộ binh 1 và lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 của địch. Ngày 26/3 ta giải
phóng hoàn toàn Trị Thiên – Huế.<br>
<br>
Phát huy kết quả đạt được, quân ta xốc tới tiến công vào căn cứ liên hợp quân sự
lớn thứ hai của địch là Đà Nẵng. Ngày 27/3, quân ta tiến công ào ạt khu liên hợp
Đà Nẵng trên 3 hướng Huế, Tam Kỳ, Thượng Đức. Ngày 28/3 pháo chiến dịch của ta
đã kiểm soát hoàn toàn thành phố Đà Nẵng khiến địch không kịp co cụm và tổ chức
phòng ngự được nên nhanh chóng tan rã. Ngày 29/3 binh đoàn Hương Giang của ta từ
hướng Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, sư đoàn 2 từ hướng Nam và Đông Nam tác chiến trong
hành tiến, tiến nhanh vào giải phóng Đà Nẵng, đồng thời phát triển tiến công ban
ngày, kết hợp với các lực lượng địa phương chiếm bán đảo Sơn Trà và thị xã Hội
An, kết thúc chiến dịch trong một thời gian kỷ lục.<br>
<br>
Kết quả ta đã tiêu diệt Quân đoàn 1, đánh thiệt hại nặng sư đoàn lính thủy đánh
bộ và tiêu diệt các đơn vị khác, tổng cộng ta diệt, bắt và làm tan rã 120.000
quân ngụy. Giải phóng 2 thành phố lớn là Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Ngãi.<br>
<br>
Chiến dịch Huế – Đà Nẵng là một chiến dịch đặc biệt ở chỗ là chiến dịch không
nằm trong dự kiến mà được tổ chức do sự phát triển mau lẹ của tình hình và kết
thúc thắng lợi to lớn, chứng tỏ sự phát triển vượt bậc về nghệ thuật quân sự. Đó
là nghệ thuật nắm bắt thời cơ chiến lược, táo bạo tấn công địch, chỉ huy phối
hợp chiến dịch từ cấp chiến trong khi cơ cấu tổ chức chiến dịch chưa kịp hình
thành.<br>
<br>
Lần đầu tiên ta tổ chức thắng lợi trận bao vây quy mô lớn cấp binh đoàn, nhanh
chóng phát triển vào chiều sâu chiến dịch bằng tác chiến trong hành tiến, bỏ qua
mục tiêu thứ yếu, đánh thẳng vào trung tâm đầu não, mục tiêu chủ yếu của chiến
dịch. Đây là trận quyết chiến chiến lược thứ hai của ta tạo điều kiện cho trận
quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam trong
năm 1975.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2"><strong><font color="#008000">
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (26/4 – 30/4/1975)<br>
</font></strong><br>
Sau khi bị mất toàn bộ Quân khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực địch bị tiêu
diệt, trong thế tan rã chiến lược hầu như không cứu vãn nổi, địch ra sức tổ chức
lực lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược
để có thể làm điều kiện mặc cả với ta. Chúng lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng
ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan. Địch tập trung và xây dựng tuyến phòng thủ
cuối cùng là Sài Gòn – Gia Định. Lực lượng địch có Quân đoàn 3 (sư đoàn 4 bộ
binh), 3 liên đoàn biệt động quân, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, 3 lữ đoàn dù,
1 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp, 19 tiểu đoàn pháo binh, 800 máy bay, 862 tàu chiến…
Từ nhận định dù Mỹ có chi viện thì cũng không cứu vãn được sự sụp đổ của quân
ngụy, Bộ Chính Trị khẳng định quyết tâm tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong
thời gian sớm nhất. Ngày 7/4 Bí thư Quân ủy Trung ương kiêm tổng tư lệnh ra lệnh
động viên “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian từng
phút xốc tới mặt trận, giải phóng hoàn toàn miền Nam, quyết chiến quyết thắng”.
Giữa tháng 4/1975, ta quyết định mở chiến dịch tổng tiến công mang tên “Chiến
dịch Hồ Chí Minh” nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam trước mùa mưa. Các
lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 5 binh đoàn bộ binh,
các đơn vị binh chủng tăng – thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo
binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt
động, bộ đội địa phương , dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn –
Gia Định.<br>
<br>
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tổng công kích, 5 cánh quân gồm các
Binh đoàn Quyết thắng, Hương Giang, Cửu Long, Tây Nguyên và đoàn 232 cùng các
đơn vị quân binh chủng đồng loạt tiến công trên 4 hướng: Bắc và Đông Bắc, Đông
và Đông Nam; Tây Bắc; Tây và Tây Nam, nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng
yếu của địch.<br>
<br>
5 giờ ngày 30 tháng 4, quân ta mở đợt tấn công cuối cùng vào tất cả các mục tiêu
trong thành phố. Vào lúc 10 giờ 45 phút, xe tăng 843 do Trung úy Bùi Quang Thận,
đại đội trưởng đại đội 4 chỉ huy và xe tăng 390 dẫn đầu lực lượng đột kích thọc
sâu của binh đoàn Hương Giang đánh chiếm Dinh Độc Lập. Cán bộ, chiến sĩ Trung
đoàn bộ binh 66 (sư đoàn 304) và lữ đoàn xe tăng 203 ( binh đoàn Hương Giang) là
những đơn vị đầu tiên cùng một số chiến sĩ biệt động đánh vào sào huyệt địch,
buộc Tổng thống ngụy quyền và toàn bộ nội các địch đầu hàng. Cờ giải phóng tung
bay trước toà nhà chính của Dinh Độc Lập lúc 11giờ 30 phút ngày 30/4/1975, chiến
dịch lịch sử Hồ Chí Minh đã thắng lợi hoàn toàn.<br>
<br>
Đây là chiến dịch tiến công chiến lược binh chủng hợp thành có quy mô lớn nhất
trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Ta tiến công trên tất cả các hướng, tạo
thành thế hợp vây ngay từ đầu, khiến địch buộc phải tác chiến hoặc đầu hàng. Đặc
biệt có sự phát triển về nghệ thuật sử dụng binh đoàn mạnh thọc vào chiều sâu
phòng ngự và đầu não của quân địch, đánh quỵ địch nganh chóng. Lần đầu tiên ta
sử dụng bộ đội tăng thiết giáp quy mô cấp lữ đoàn, đảm nhận một hướng tiến công
chủ yếu với tính chất là cụm cơ động thọc sâu, phát huy sức đột kích nhanh và
tăng cường khả năng tác chiến trong hành tiến. Ta đã kết hợp tiến công chiến
lược trên toàn chiến trường, giành thắng lợi hoàn toàn.</font></p>
<p align="justify"><font face="Arial" size="2"><strong><font color="#008000">
Chiến dịch giành lại chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển, đảo, quần đảo phía
Nam của Tổ Quốc trong cuộc Tổng tiến công chiến lược Mùa xuân năm 1975 (14/4 –
2/5/1975)</font><font color="#ff0000"><br>
</font></strong><br>
Thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh về giải phóng các đảo thuộc chủ quyền Việt
Nam ở biển Đông, ngày 30/3/1975, Quân ủy Trung ương điện cho đồng chí Võ Chí
Công, Bí thư khu ủy và đồng chí Chu Huy Mân chính ủy kiêm tư lệnh khu 5 nghiên
cứu, nhằm thời cơ thuận lợi nhất sử dụng lực lượng đủ mạnh đánh chiếm các đảo do
quân ngụy chiếm đóng thuộc quần đảo Trường Sa, đồng thời phái viên của Bộ Tổng
tham mưu và cán bộ của Quân chủng Hải quân do Khu ủy chỉ đạo để thực hiện kế
hoạch.<br>
<br>
Ngày 4/4 khu ủy và chỉ huy khu 5 cùng Bộ tư lệnh Hải quân triển khai kế hoạch
tác chiến. Các lực lượng thuộc Quân khu 5 cùng một biên đội tàu của Đoàn 125 và
đặc công của Hải quân do đồng chí Mai Năng đoàn trưởng đoàn 126 chỉ huy xuất
kích. Sau những chặng đường vượt biển gian lao, vất vả, các lực lượng của ta đã
bí mật áp sát mục tiêu. Đúng 4 giờ 30 ngày 14/4 các đơn vị ta bất ngờ đổ bộ, nổ
súng tiến công các đảo thuộc vùng biển phía Nam của Tổ Quốc trong đó quần đảo
Trường Sa.<br>
<br>
Các lực lượng chiến đấu của ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hoàn
thành việc giành lại chủ quyền các đảo vào ngày 28/4/1975.<br>
<br>
Trên cơ sở thắng lợi đã giành được, từ ngày 30/3 đến ngày 2/5/1975, bộ đội chủ
lực quân khu và các lực lượng vũ trang các tỉnh Đông Nam Bộ đã nắm bắt chính xác
thời cơ khi chính quyền trung ương ngụy đầu hàng, quân ngụy tan rã, kết hợp tiến
công với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn
4, quân khu 4 và lực lượng khác của địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng
bằng Nam Bộ, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây
Nam Tổ Quốc.</font></p>
<p align="right"><i><b><font face="Arial" size="2">Theo tài liệu Đại cương lịch
sử Việt Nam tập III NXB Giáo Dục Hà Nội 2004</font></b></i></p>
</body>
</html>