Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015)

<html><head><meta http-equiv="Content-Type" content="text/html; charset=windows-1252"</head><body> <p style="text-align: justify;"><span style="font-family:arial,helvetica,sans-serif"><span style="font-size:14px"><strong>1. Về th&acirc;n thế, sự nghiệp Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du</strong><br /> <br /> Nguyễn Du (1765-1820), t&ecirc;n chữ l&agrave; Tố Như, hiệu Thanh Hi&ecirc;n, sinh tại kinh th&agrave;nh Thăng Long (nay l&agrave; Thủ đ&ocirc; H&agrave; Nội). Cha l&agrave; Ho&agrave;ng gi&aacute;p Nguyễn Nghiễm (1708-1776) qu&ecirc; x&atilde; Ti&ecirc;n Điền, huyện Nghi Xu&acirc;n, tỉnh H&agrave; Tĩnh, l&agrave;m quan đến chức Tham Tụng (Tể tướng) dưới triều L&ecirc;; mẹ l&agrave; b&agrave; Trần Thị Tần qu&ecirc; ở Kinh Bắc - Bắc Ninh.<br /> <br /> Năm T&acirc;n M&atilde;o (1771), Nguyễn Nghiễm th&ocirc;i giữ chức Tể tướng, Nguyễn Du theo cha về qu&ecirc;, đến năm 13 tuổi th&igrave; mồ c&ocirc;i cả cha lẫn mẹ. Năm 1783, Nguyễn Du thi đậu Tam trường, được tập ấm một chức quan v&otilde; của người cha nu&ocirc;i họ H&agrave; (H&agrave; Mỗ) ở Th&aacute;i Nguy&ecirc;n. Sau đ&oacute;, Nguyễn Du lấy vợ l&agrave; b&agrave; Đo&agrave;n Thị Huệ, người l&agrave;ng An Hải, huyện Quỳnh C&ocirc;i, trấn Sơn Nam (nay l&agrave; tỉnh Th&aacute;i B&igrave;nh) con g&aacute;i của tiến sỹ Đo&agrave;n Nguyễn Thục. Năm Mậu Th&acirc;n (1788), khi Nguyễn Huệ l&ecirc;n ng&ocirc;i Ho&agrave;ng đế lấy hiệu Quang Trung, Nguyễn Du l&aacute;nh về nh&agrave; anh vợ l&agrave; Đo&agrave;n Nguyễn Tuấn tại Th&aacute;i B&igrave;nh.<br /> <br /> Mười năm ở qu&ecirc; vợ l&agrave; qu&atilde;ng <em>&ldquo;Mười năm gi&oacute; bụi&rdquo;,</em> bao cảnh cơ h&agrave;n, bần cực đ&atilde; đến với Nguyễn Du. Khi bố vợ l&agrave; Đo&agrave;n Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, Nguyễn Du c&ugrave;ng người con trai nhỏ Nguyễn Tứ về qu&ecirc; cũ ở x&atilde; Ti&ecirc;n Điền. Trở lại qu&ecirc;, dinh cơ của cha đ&atilde; tan hoang, anh em đ&ocirc;i ngả, Nguyễn Du thốt l&ecirc;n <em>&ldquo;Hồng Lĩnh v&ocirc; gia huynh đệ t&aacute;n&rdquo;</em> (trở về Hồng Lĩnh, gia đ&igrave;nh kh&ocirc;ng c&ograve;n, anh em lưu t&aacute;n). Nguyễn Du được b&agrave; con họ tộc chia cho mảnh đất tại th&ocirc;n Thuận Mỹ l&agrave;m nh&agrave; để ở. V&agrave; cũng từ đ&acirc;y, Nguyễn Du c&oacute; biệt hiệu <em>&ldquo;Hồng Sơn liệp hộ&rdquo;</em> (người đi săn ở n&uacute;i Hồng) v&agrave; <em>&ldquo;Nam Hải điếu đồ&rdquo;</em> (người c&acirc;u c&aacute; ở bể Nam).<br /> <br /> Năm Nh&acirc;m Tuất (1802), Gia Long l&ecirc;n ng&ocirc;i, Nguyễn Du được bổ l&agrave;m Tri huyện Ph&ugrave; Dung (phủ Kho&aacute;i Ch&acirc;u, trấn Sơn Nam); th&aacute;ng 11 l&agrave;m Tri phủ Thường T&iacute;n, trấn Sơn Nam (tỉnh H&agrave; T&acirc;y). Năm Qu&yacute; Hợi (1803), được cử c&ugrave;ng ph&aacute;i bộ ngh&ecirc;nh tiếp sứ thần nh&agrave; Thanh sang sắc phong cho vua Gia Long. M&ugrave;a thu năm Gi&aacute;p T&yacute; (1804), Nguyễn Du c&aacute;o bệnh về qu&ecirc;. Năm Ất Sửu (1805), được thăng Đ&ocirc;ng C&aacute;c Đại học sĩ, tước Du Đức hầu (h&agrave;m ngũ phẩm). Th&aacute;ng 9 năm Đinh M&atilde;o (1807) giữ chức gi&aacute;m khảo thi Hương ở Hải Dương, sau xin về qu&ecirc;. Năm Kỷ Tỵ (1809), &ocirc;ng giữ chức Cai Bạ, tỉnh Quảng B&igrave;nh. Th&aacute;ng 9 năm Nh&acirc;m Tuất (1812), Nguyễn Du xin nghỉ về qu&ecirc; 2 th&aacute;ng để x&acirc;y mộ cho anh l&agrave; Nguyễn Nễ, th&aacute;ng 2 năm Qu&yacute; Dậu (1813) c&oacute; chỉ triệu về kinh, được thăng h&agrave;m Cần Ch&aacute;nh điện học sĩ, cử đi sứ Trung Quốc với tư c&aacute;ch l&agrave; Tuế cống Ch&aacute;nh sứ. Th&aacute;ng 4 năm Gi&aacute;p Tuất (1814), Nguyễn Du trở về nước, c&oacute; tập thơ &ldquo;Bắc H&agrave;nh tạp lục&rdquo; v&agrave; được vua Gia Long thăng chức Hữu Tham tri bộ Lễ (h&agrave;m Tam phẩm). M&ugrave;a thu năm Kỷ M&atilde;o (1819), được cử l&agrave;m Đề điệu trường thi Quảng Nam, &ocirc;ng d&acirc;ng biểu từ chối, được chuẩn y. Th&aacute;ng 8 năm Canh Th&igrave;n (1820) vua Gia Long mất, Minh Mạng l&ecirc;n ng&ocirc;i, Nguyễn Du được cử l&agrave;m Ch&aacute;nh sứ sang nh&agrave; Thanh b&aacute;o tang v&agrave; cầu phong. Tuy nhi&ecirc;n, chưa kịp thực hiện th&igrave; ng&agrave;y 10 th&aacute;ng 8 năm Canh Th&igrave;n (6-9-1820), Nguyễn Du bị cảm bệnh v&agrave; mất tại kinh th&agrave;nh Huế, hưởng thọ 55 tuổi.<br /> <br /> <strong>2. Sự nghiệp s&aacute;ng t&aacute;c</strong><br /> <br /> Nguyễn Du đ&atilde; để lại cho hậu thế nhiều t&aacute;c phẩm văn chương bất hủ bao gồm cả chữ H&aacute;n v&agrave; chữ N&ocirc;m, trong đ&oacute;, s&aacute;ng t&aacute;c chữ H&aacute;n, bao gồm:<br /> <br /> <em>Thanh Hi&ecirc;n thi tập</em> (Tập thơ của Thanh Hi&ecirc;n) gồm 78 b&agrave;i, viết chủ yếu trong những năm th&aacute;ng trước khi l&agrave;m quan nh&agrave; Nguyễn. Nam trung tạp ng&acirc;m gồm 40 b&agrave;i thơ l&agrave;m từ năm 1805 đến cuối năm 1812, &ocirc;ng viết khi l&agrave;m quan ở Huế, Quảng B&igrave;nh v&agrave; những địa phương ở ph&iacute;a nam H&agrave; Tĩnh. Bắc h&agrave;nh tạp lục (Ghi ch&eacute;p trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 b&agrave;i thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.<br /> <br /> S&aacute;ng t&aacute;c chữ N&ocirc;m, gồm c&oacute;: <em>Đoạn trường t&acirc;n thanh</em> (Tiếng k&ecirc;u mới về nỗi đau đứt ruột), tức t&aacute;c phẩm <em>Truyện Kiều,</em> gồm 3254 c&acirc;u thơ theo thể lục b&aacute;t. <em>Văn chi&ecirc;u hồn</em> nguy&ecirc;n c&oacute; t&ecirc;n l&agrave; <em>&ldquo;Văn tế thập loại ch&uacute;ng sinh&rdquo;,</em> nghĩa l&agrave; Văn tế mười loại người, l&agrave; một ng&acirc;m kh&uacute;c gồm 184 c&acirc;u viết theo thể song thất lục b&aacute;t. Th&aacute;c lời trai phường n&oacute;n gồm 48 c&acirc;u, cũng được viết bằng thể lục b&aacute;t, nội dung thay lời người con trai phường n&oacute;n l&agrave;m thơ tỏ t&igrave;nh với c&ocirc; g&aacute;i phường vải.<em>&ldquo;Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ&rdquo;</em> gồm 98 c&acirc;u, viết theo lối văn tế&hellip;<br /> <br /> <strong>3. T&aacute;c phẩm Truyện Kiều</strong><br /> <br /> Kiệt t&aacute;c <em>&quot;Truyện Kiều&quot;</em> của Nguyễn Du nguy&ecirc;n c&oacute; t&ecirc;n l&agrave; <em>&ldquo;Đoạn trường t&acirc;n thanh&rdquo;</em>. Đ&acirc;y l&agrave; t&aacute;c phẩm truyện thơ n&ocirc;m lục b&aacute;t viết dựa tr&ecirc;n cốt truyện &quot;Kim V&acirc;n Kiều truyện&quot; của Thanh T&acirc;m T&agrave;i Nh&acirc;n (Trung Quốc). Mượn bối cảnh x&atilde; hội Trung Quốc đời nh&agrave; Minh <em>(Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh)</em> nhưng <em>Truyện Kiều</em> ch&iacute;nh l&agrave; bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại l&uacute;c nh&agrave; thơ đang sống.<br /> <br /> T&aacute;c phẩm gồm 3254 c&acirc;u lục b&aacute;t kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, ch&igrave;m nổi của Th&uacute;y Kiều, người con g&aacute;i t&agrave;i sắc vẹn to&agrave;n nhưng v&igrave; gia biến phải b&aacute;n m&igrave;nh chuộc cha, rơi v&agrave;o cảnh &ldquo;Thanh y hai lượt, thanh l&acirc;u hai lần&rdquo;, bị c&aacute;c thế lực phong kiến d&agrave;y x&eacute;o, ch&agrave; đạp.<br /> <br /> <em><strong>Về gi&aacute; trị hiện thực:</strong> </em>t&aacute;c phẩm đ&atilde; phơi b&agrave;y bộ mặt x&atilde; hội phong kiến bất c&ocirc;ng, t&agrave;n bạo, đồng thời phản &aacute;nh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt l&agrave; người phụ nữ trong x&atilde; hội Việt Nam.<br /> <br /> <em><strong>Về gi&aacute; trị nh&acirc;n đạo:</strong></em> <em>Truyện Kiều</em> l&agrave; tiếng n&oacute;i đề cao t&igrave;nh y&ecirc;u tự do, kh&aacute;t vọng c&ocirc;ng l&iacute; v&agrave; ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết <em>Truyện Kiều</em>, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một t&igrave;nh y&ecirc;u tự do, trong s&aacute;ng, chung thủy trong x&atilde; hội m&agrave; quan niệm về t&igrave;nh y&ecirc;u, h&ocirc;n nh&acirc;n c&ograve;n hết sức khắc nghiệt. Mối t&igrave;nh Kim - Kiều được xem như l&agrave; b&agrave;i ca tuyệt đẹp về t&igrave;nh y&ecirc;u lứa đ&ocirc;i trong văn học d&acirc;n tộc. Truyện Kiều c&ograve;n l&agrave; b&agrave;i ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đ&oacute; l&agrave; vẻ đẹp của t&agrave;i, sắc, t&igrave;nh, l&ograve;ng hiếu thảo, tr&aacute;i tim nh&acirc;n hậu, đức t&iacute;nh vị tha, thủy chung, ch&iacute; kh&iacute; anh h&ugrave;ng&hellip; Th&uacute;y Kiều, Kim Trọng, Từ Hải l&agrave; hiện th&acirc;n cho những vẻ đẹp đ&oacute;. Th&ocirc;ng qua nh&acirc;n vật Từ Hải, người anh h&ugrave;ng hảo h&aacute;n, một m&igrave;nh d&aacute;m chống lại cả x&atilde; hội bạo t&agrave;n, Nguyễn Du c&ograve;n thể hiện kh&aacute;t vọng c&ocirc;ng l&iacute; tự do, d&acirc;n chủ giữa một x&atilde; hội bất c&ocirc;ng, t&ugrave; t&uacute;ng.<br /> <br /> C&ugrave;ng với đ&oacute;, <em>Truyện Kiều</em> c&ograve;n l&agrave; tiếng n&oacute;i l&ecirc;n &aacute;n c&aacute;c thế lực t&agrave;n bạo, ch&agrave; đạp l&ecirc;n quyền sống con người. Thế lực đ&oacute; được điển h&igrave;nh h&oacute;a qua c&aacute;c nh&acirc;n vật như M&atilde; Gi&aacute;m Sinh, Sở Khanh, T&uacute; B&agrave;, qua bộ mặt quan tham như Hồ T&ocirc;n Hiến... Đ&oacute; c&ograve;n l&agrave; sự t&agrave;n ph&aacute;, hủy diệt của đồng tiền trong tay bọn người bất lương t&agrave;n bạo, n&oacute; c&oacute; sức mạnh đổi trắng thay đen, biến con người th&agrave;nh thứ h&agrave;ng h&oacute;a để mua b&aacute;n, ch&agrave; đạp.<br /> <br /> <em><strong>Về gi&aacute; trị nghệ thuật:</strong> </em>Nguyễn Du đ&atilde; kết hợp t&agrave;i t&igrave;nh tinh hoa của ng&ocirc;n ngữ b&aacute;c học với tinh hoa của ng&ocirc;n ngữ b&igrave;nh d&acirc;n. Với <em>Truyện Kiều</em>, tiếng Việt v&agrave; thể thơ lục b&aacute;t d&acirc;n tộc đ&atilde; đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca, l&agrave; sự kết tinh th&agrave;nh tựu nghệ thuật văn học d&acirc;n tộc tr&ecirc;n c&aacute;c phương diện ng&ocirc;n ngữ, thể loại. C&ocirc;ng đ&oacute;ng g&oacute;p của Nguyễn Du về phương diện ng&ocirc;n ngữ l&agrave; c&oacute; một kh&ocirc;ng hai trong lịch sử.<br /> <br /> Nghệ thuật tự sự trong <em>Truyện Kiều</em> cũng đ&atilde; c&oacute; bước ph&aacute;t triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật mi&ecirc;u tả thi&ecirc;n nhi&ecirc;n, khắc họa t&iacute;nh c&aacute;ch nh&acirc;n vật v&agrave; mi&ecirc;u tả t&acirc;m l&iacute; con người. Trong lời tựa cuốn <em>Truyện Kiều</em> ra mắt lần đầu ti&ecirc;n v&agrave;o năm 1820, Mộng Li&ecirc;n Đường chủ nh&acirc;n (Nguyễn Đăng Tuyển, 1795-1880) đ&atilde; viết: &ldquo;&hellip; Tố Như tử dụng t&acirc;m đ&atilde; khổ, tự sự đ&atilde; kh&eacute;o, tả cảnh đ&atilde; hệt, đ&agrave;m t&igrave;nh đ&atilde; thiết, nếu kh&ocirc;ng phải c&oacute; con mắt tr&ocirc;ng thấu s&aacute;u c&otilde;i, tấm l&ograve;ng nghĩ suốt ng&agrave;n đời, th&igrave; t&agrave;i n&agrave;o c&oacute; b&uacute;t lực ấy&hellip;&rdquo;.<br /> <br /> Với những gi&aacute; trị to lớn ấy, h&agrave;ng trăm năm nay, <em>Truyện Kiều</em> lu&ocirc;n được lưu truyền rộng r&atilde;i v&agrave; c&oacute; sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ tr&iacute; thức tới người b&igrave;nh d&acirc;n, l&agrave;m lay động tr&aacute;i tim của bao thế hệ người Việt Nam, l&agrave; cảm hứng s&aacute;ng t&aacute;c cho rất nhiều những t&aacute;c phẩm thi ca, nhạc họa sau n&agrave;y.<br /> <br /> <em>Truyện Kiều</em> của Nguyễn Du cũng đ&atilde; g&oacute;p phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ c&otilde;i của một quốc gia, trở th&agrave;nh một phần của tinh hoa của văn h&oacute;a nh&acirc;n loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam tr&ecirc;n thi đ&agrave;n quốc tế. Với <em>Truyện Kiều</em> n&oacute;i ri&ecirc;ng v&agrave; to&agrave;n bộ trước t&aacute;c của Nguyễn Du n&oacute;i chung, &ocirc;ng được c&aacute;c thế hệ người Việt Nam t&ocirc;n vinh l&agrave; Đại thi h&agrave;o d&acirc;n tộc, Hội đồng H&ograve;a b&igrave;nh thế giới vinh danh l&agrave; Danh nh&acirc;n văn h&oacute;a thế giới.<br /> <br /> Đ&aacute;nh gi&aacute; về <em>Truyện Kiều</em>, trong Lời đầu s&aacute;ch <em>Từ điển Truyện Kiều</em> (1974), Gi&aacute;o sư Đ&agrave;o Duy Anh viết: &ldquo;Trong lịch sử ng&ocirc;n ngữ v&agrave; lịch sử văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Tr&atilde;i với <em>Quốc &acirc;m thi tập</em> l&agrave; người đặt nền m&oacute;ng cho ng&ocirc;n ngữ văn học d&acirc;n tộc th&igrave; Nguyễn Du với <em>Truyện Kiều</em> lại l&agrave; người đặt nền m&oacute;ng cho ng&ocirc;n ngữ văn học hiện đại của nước ta&hellip;&rsquo;&rsquo;<br /> <br /> Gi&aacute;o sư - Nh&agrave; gi&aacute;o Nh&acirc;n d&acirc;n L&ecirc; Đ&igrave;nh Kỵ, người được xem l&agrave; <em>&quot;chuy&ecirc;n gia Truyện Kiều&quot;</em> đ&atilde; c&oacute; những trang văn nhận định th&uacute; vị: &quot;<em>Truyện Kiều</em> nổi l&ecirc;n so với những gi&aacute; trị văn học đương thời, v&agrave; khiến s&aacute;ng t&aacute;c của Nguyễn Du gần với ch&uacute;ng ta ng&agrave;y nay, về cả nội dung v&agrave; h&igrave;nh thức nghệ thuật&hellip; Trước sau <em>Truyện Kiều</em> vẫn l&agrave; di sản vĩ đại, l&agrave; tuyệt đỉnh của nền văn học d&acirc;n tộc qu&aacute; khứ. Quan điểm lịch sử cũng như đ&ograve;i hỏi mu&ocirc;n đời của gi&aacute; trị văn học đều cho ph&eacute;p ta khẳng định điều đ&oacute;&quot;.<br /> <br /> Hiện nay, <em>Truyện Kiều</em> đ&atilde; được dịch ra hơn 30 thứ tiếng tr&ecirc;n thế giới, trong đ&oacute; tiếng Ph&aacute;p c&oacute; tr&ecirc;n 10 bản dịch, tiếng Anh v&agrave; tiếng H&agrave;n Quốc tr&ecirc;n 10 bản, tiếng Nhật 5 bản&hellip;<br /> <br /> <strong>4. T&ocirc;n vinh Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du</strong><br /> <br /> Với những cống hiến của Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du cho nền văn học nước nh&agrave; v&agrave; sự ph&aacute;t triển văn h&oacute;a của nh&acirc;n loại, th&aacute;ng 12-1964, tại th&agrave;nh phố B&eacute;clin (Đức) Hội đồng H&ograve;a b&igrave;nh thế giới ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ng&agrave;y sinh Nguyễn Du (1675-1965) c&ugrave;ng với 8 danh nh&acirc;n văn h&oacute;a tr&ecirc;n to&agrave;n thế giới. Sau đ&oacute;, Ban Chấp h&agrave;nh Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay l&agrave; Đảng Cộng sản Việt Nam) đ&atilde; c&oacute; Chỉ thị số 112-CT/TW ng&agrave;y 26-10-1965 &quot;Về việc kỷ niệm Nguyễn Du&quot;. Đ&acirc;y l&agrave; cột mốc lớn trong việc nghi&ecirc;n cứu, khẳng định v&agrave; t&ocirc;n vinh Nguyễn Du v&agrave; <em>Truyện Kiều</em>.<br /> <br /> Từ đ&oacute; đến nay c&aacute;c hoạt động nghi&ecirc;n cứu, bảo tồn v&agrave; ph&aacute;t huy những gi&aacute; trị t&aacute;c phẩm của Nguyễn Du, nhất l&agrave; <em>Truyện Kiều</em> lu&ocirc;n được tiến h&agrave;nh v&agrave; thu nhiều kết quả mới, nhất l&agrave; v&agrave;o c&aacute;c dịp kỷ niệm 240, 245 năm ng&agrave;y sinh của Nguyễn Du do Bộ Văn h&oacute;a - Th&ocirc;ng tin (nay l&agrave; Bộ Văn h&oacute;a, Thể thao v&agrave; Du lịch), Hội Nh&agrave; văn Việt Nam v&agrave; tỉnh H&agrave; Tĩnh phối hợp tổ chức.<br /> <br /> Ng&agrave;y 25-10-2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Gi&aacute;o dục, Khoa học v&agrave; Văn h&oacute;a của Li&ecirc;n hiệp quốc (UNESCO) họp ở Paris đ&atilde; ch&iacute;nh thức ban h&agrave;nh Quyết định số 37C/15 ph&ecirc; chuẩn Quyết định số 191EX/32 v&agrave; 192EX/32, nhất tr&iacute; vinh danh Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du c&ugrave;ng với 107 danh nh&acirc;n văn h&oacute;a to&agrave;n thế giới. Theo đ&oacute;, hoạt động t&ocirc;n vinh được triển khai ở Việt Nam v&agrave; tại c&aacute;c nước trong cộng đồng UNESCO (ni&ecirc;n độ 2014 -2015).<br /> <br /> Ng&agrave;y 15-8-2014, Văn ph&ograve;ng Trung ương Đảng c&oacute; c&ocirc;ng văn số 8467-CV/VPTW th&ocirc;ng b&aacute;o &yacute; kiến của Ban B&iacute; thư về việc &rdquo;Đồng &yacute; chủ trương tổ chức Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 250 năm Ng&agrave;y sinh Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du, Danh nh&acirc;n văn h&oacute;a thế giới trong năm 2015. Tỉnh H&agrave; Tĩnh chủ tr&igrave; tổ chức Lễ kỷ niệm; mời đại diện l&atilde;nh đạo Đảng, nh&agrave; nước dự&rdquo;.<br /> <br /> Ng&agrave;y 31-10-2014, Ủy ban nh&acirc;n d&acirc;n tỉnh H&agrave; Tĩnh đ&atilde; ban h&agrave;nh Kế hoạch 470/KH-UBND về Kế hoạch Kỷ niệm 250 năm Ng&agrave;y sinh v&agrave; vinh danh Danh nh&acirc;n văn h&oacute;a Thế giới, Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du.<br /> <br /> Hiện nay, tỉnh H&agrave; Tĩnh đang phối hợp với c&aacute;c ban, bộ, ng&agrave;nh, đơn vị li&ecirc;n quan triển khai tổ chức c&aacute;c hoạt động, chuẩn bị tốt c&aacute;c điều kiện để tổ chức lễ vinh danh, lễ kỷ niệm 250 năm Ng&agrave;y sinh Danh nh&acirc;n văn h&oacute;a thế giới Đại thi h&agrave;o nguyễn Du <em>(dự kiến v&agrave;o đầu th&aacute;ng 12 năm 2015).</em><br /> <br /> <strong>5. Di t&iacute;ch quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Nguyễn Du</strong><br /> <br /> Khu lưu niệm Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du được xếp hạng Di t&iacute;ch Quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1419/QĐ-TTg ng&agrave;y 27-9-2012 của Thủ tướng Ch&iacute;nh phủ, c&aacute;c hạng mục ch&iacute;nh của Khu lưu niệm bao gồm:<br /> <br /> <em>Nh&agrave; thờ Nguyễn Du:</em> Năm 1824, Nguyễn Ngũ c&ugrave;ng con ch&aacute;u trong d&ograve;ng họ đ&atilde; đưa h&agrave;i cốt Nguyễn Du về qu&ecirc; nh&agrave; cải t&aacute;ng v&agrave; lập đền thờ ngay tr&ecirc;n khu vườn cũ của &ocirc;ng tại x&oacute;m Tiền, th&ocirc;n Lương Năng (nay l&agrave; th&ocirc;n Thuận Mỹ, x&atilde; Ti&ecirc;n Điền, huyện Nghi Xu&acirc;n). Khoảng thời gian từ năm 1934 -1935 nh&agrave; thờ bị hỏng. Năm 1940, Hội Khai tr&iacute; Tiến Đức c&ugrave;ng con ch&aacute;u họ Nguyễn Ti&ecirc;n Điền x&acirc;y dựng nh&agrave; thờ trong khu vườn họ Nguyễn. Năm 2010, nh&agrave; thờ Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du được x&acirc;y dựng mới v&agrave; kh&aacute;nh th&agrave;nh v&agrave;o th&aacute;ng 11-2012.<br /> <br /> <em>Nh&agrave; Văn th&aacute;nh - B&igrave;nh văn:</em> Văn th&aacute;nh h&agrave;ng huyện thờ Khổng Tử do Nguyễn Nghiễm x&acirc;y dựng. Trước đ&acirc;y, mỗi dịp xu&acirc;n về c&aacute;c bậc t&uacute;c nho trong v&ugrave;ng về đ&acirc;y b&aacute;o ơn, b&igrave;nh văn, đọc thơ v&agrave; tổ chức lễ &quot;cầu khoa&quot; cầu cho con em trong v&ugrave;ng th&agrave;nh danh tr&ecirc;n con đường khoa cử.<br /> <br /> <em>Đ&agrave;n tế, bia đ&aacute; Nguyễn Quỳnh</em> (&ocirc;ng nội Nguyễn Du): Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được phong Tể tướng, &ocirc;ng c&ugrave;ng em trai l&agrave; Nguyễn Trọng lập đ&agrave;n tế, dựng bia đ&aacute; tưởng nhớ c&ocirc;ng ơn của cha mẹ.<br /> <br /> <em>Mộ Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du:</em> Nguyễn Du l&acirc;m bệnh v&agrave; mất tại Huế v&agrave;o ng&agrave;y 10 th&aacute;ng 8 năm Canh Th&igrave;n (ng&agrave;y 16 th&aacute;ng 9 năm 1820) thọ 55 tuổi. Phần mộ đặt tại c&aacute;nh đồng B&agrave;u Đ&aacute;, x&atilde; An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thi&ecirc;n Huế. Năm 1824, con l&agrave; Nguyễn Ngũ v&agrave; ch&aacute;u l&agrave; Nguyễn Thắng&nbsp; dời về cải t&aacute;ng trong vườn nh&agrave; tại x&oacute;m Tiền, th&ocirc;n Lương Năng (nay l&agrave; th&ocirc;n Thuận Mỹ, x&atilde; Ti&ecirc;n Điền, huyện Nghi Xu&acirc;n). Năm 1826, Nguyễn Ngũ dịch chuyển ra cạnh đ&oacute; 500m, hai năm sau được chuyển ra khu nghĩa trang tại xứ Đồng C&ugrave;ng thuộc th&ocirc;n Tiền Gi&aacute;p. Với dự &aacute;n T&ocirc;n tạo khu di t&iacute;ch Nguyễn Du bằng nguồn vốn Chương tr&igrave;nh mục ti&ecirc;u quốc gia về văn ho&aacute; (1999 -2004), khu mộ đ&atilde; được x&acirc;y dựng, chỉnh trang lại như hiện nay.<br /> <br /> <em>Đền thờ, mộ Nguyễn Nghiễm</em> (1708-1776): Nguyễn Nghiễm l&agrave; con trai thứ hai của Lĩnh Nam c&ocirc;ng Nguyễn Quỳnh v&agrave; l&agrave; th&acirc;n phụ Đại thi h&agrave;o Nguyễn Du. &Ocirc;ng l&agrave; nh&agrave; ch&iacute;nh trị, nh&agrave; gi&aacute;o dục, nh&agrave; sử học uy&ecirc;n b&aacute;c v&agrave; l&agrave; người đứng đầu về con đường cử nghiệp, khoa bảng họ Nguyễn - Ti&ecirc;n Điền. &Ocirc;ng đậu tiến sỹ năm 1731, l&agrave;m Tế tửu Quốc Tử Gi&aacute;m (1742), giữ chức Tể tướng (1762) v&agrave; trong gần 50 năm l&agrave;m quan của m&igrave;nh, &ocirc;ng đ&atilde; để lại nhiều trước t&aacute;c c&oacute; gi&aacute; trị như: &ldquo;Qu&acirc;n trung liện vịnh&rdquo;, &ldquo;Xu&acirc;n đ&igrave;nh tạp vịnh&rdquo;, &ldquo;Cổ lễ nhạc thi văn&rdquo; v&agrave; b&agrave;i ph&uacute; N&ocirc;m &ldquo;Khổng Tử mộng Chu C&ocirc;ng&rdquo;... Đền thờ được x&acirc;y dựng khi &ocirc;ng c&ograve;n sống (sinh từ), thuộc th&ocirc;n Bảo Kệ, x&atilde; Ti&ecirc;n Điền v&agrave; nh&acirc;n d&acirc;n thường gọi đ&acirc;y l&agrave; đền &ldquo;Đức Đại vương&nbsp; hai&rdquo;. Phần mộ &ocirc;ng hiện nằm tại th&ocirc;n Ti&ecirc;n Thanh x&atilde; Ti&ecirc;n Điền, huyện Nghi&nbsp; Xu&acirc;n.<br /> <br /> <em>Đền thờ Nguyễn Trọng</em> (1710 - 1789), l&agrave; ch&uacute; ruột của Nguyễn Du, người giỏi về văn thơ, l&yacute;, số, y học. Đền thờ được x&acirc;y dựng khi &ocirc;ng c&ograve;n sống (sinh từ) ở th&ocirc;n Ti&ecirc;n Quang, x&atilde; Ti&ecirc;n Điền. Kiến tr&uacute;c đơn giản, nội thất c&ograve;n giữ lại nhiều đồ tế kh&iacute;, ho&agrave;nh phi c&acirc;u đối c&oacute; gi&aacute; trị. Trước đền thờ c&oacute; voi, ngựa đ&aacute;, tấm bia &ldquo;T&iacute;ch thiện gia&rdquo; v&agrave; trong khu&ocirc;n vi&ecirc;n c&ograve;n c&oacute; mộ phần của &ocirc;ng.<br /> <br /> <em>Khu lăng Văn Sự:</em> L&agrave; khu mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn - Ti&ecirc;n Điền, gồm mộ Nguyễn Thể - bố Nguyễn Quỳnh; Thuật Hi&ecirc;n c&ocirc;ng Nguyễn Khản; Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn; Ch&iacute;nh thất L&ecirc; Qu&yacute; thị (vợ Phương Trạch hầu); Giới Hi&ecirc;n c&ocirc;ng Nguyễn Huệ v&agrave; ch&iacute;nh thất Nguyễn Qu&yacute; Thị (vợ Nguyễn Huệ).<br /> <br /> <em>Kh&ocirc;ng gian văn h&oacute;a Nguyễn Du:</em> X&acirc;y dựng v&agrave;o năm 2000, gồm Tượng đ&agrave;i, Thư viện Nguyễn Du, Hội trường; Nh&agrave; thờ, Nh&agrave; bảo t&agrave;ng Nguyễn Du...<br /> <br /> Hiện nay, mỗi năm Khu lưu niệm Nguyễn Du đ&oacute;n từ 1,8 đến 2 vạn lượt kh&aacute;ch đến tham quan, trong đ&oacute; c&oacute; rất nhiều đo&agrave;n kh&aacute;ch quốc tế, c&aacute;c chuy&ecirc;n gia, sinh vi&ecirc;n c&aacute;c trường đại học đến t&igrave;m hiểu, nghi&ecirc;n cứu.</span></span></p> <p style="text-align: right;"><strong><span style="font-family:arial,helvetica,sans-serif"><span style="font-size:14px">Ban Tuy&ecirc;n gi&aacute;o Trung ương</span></span> </strong></p> <p style="text-align: right;"><span style="font-family:arial,helvetica,sans-serif"><span style="font-size:14px">Nguồn ảnh: baobinhphuoc.com.vn</span></span></p> </body></html>

BÌNH LUẬN

TIN NÓNG

Sáng 05-4, tại phòng họp C6 Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra hội nghị ký kết phối hợp tuyên truyền thực hiện chính sách, pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, ứng dụng VssID giai đoạn 2024-2027.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Nhân dịp Tết cổ truyền của Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (Bun Pi May), Vương quốc Campuchia (Chol Chnam Thmay) và Vương quốc Thái Lan (Songkran) năm 2024, nhằm thắt chặt quan hệ hữu nghị, đồng hành, hợp tác tích cực, vun đắp cho tình hữu nghị giữa thanh niên và nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia - Thái Lan, vừa qua, Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức các đoàn đại biểu đi thăm và chúc mừng Tết cố truyền Bun Pi May, Chol Chnam Thmay và Songkran của các quốc gia.

Agile Việt Nam
;